Đã
có khá nhiều lời bình phẩm và kiến giải về màn "Báo ân báo oán" trong
"Truyện Kiều" của Nguyễn Du, thậm chí có những ý kiến trái ngược xung
quanh việc Kiều tha bổng Hoạn Thư trong khi lại thẳng tay trừng trị "lũ
người bạc ác tinh ma" khác. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung một số
kiến giải theo quan điểm riêng của mình, mong bạn đọc có ý kiến khác thì
cùng trao đổi...
Với
kiệt tác "Truyện Kiều", Nguyễn Du thể hiện thiên tài văn học ở nhiều
phương diện, ở toàn bộ tác phẩm, đồng thời cũng thật xuất sắc trong từng
trường đoạn, trong đó có đoạn thể hiện quan hệ tay ba giữa Thúc Sinh -
Hoạn Thư và Thúy Kiều. Đoạn trích "Thuý Kiều báo ân báo oán" trong sách
giáo khoa Ngữ văn 9 (tập 1) đã lược bỏ quang cảnh pháp đình, đoạn Thuý
Kiều đền ơn vãi Giác Duyên và bà quản gia trong dinh họ Hoạn, chỉ giữ
lại hai đoạn đền ơn Thúc Sinh và xử án Hoạn Thư (do khuôn khổ của một
giờ dạy và đặc thù của đối tượng tiếp nhận). Dù vô tình hay hữu ý, các
tác giả soạn sách đã làm nổi bật quan hệ tay ba: Thúc Sinh - Hoạn Thư -
Thuý Kiều ở màn chót của nó, và chính tại đây, tính cách của từng nhân
vật được hiện ra rõ ràng, sinh động hơn bao giờ hết. Mỗi câu chữ đều gợi
nhớ đến quãng đời chìm nổi, đắng cay hoặc mong manh hạnh phúc đã qua
của nàng Kiều, gợi đến những quan hệ quá khứ liên quan đến cả ba người.
Thật ra, người có đủ uy lực
tuyệt đối để chủ tọa phiên tòa đúng ra phải là Từ Hải! Nhưng Từ vì quá
tôn trọng nàng mà trao lại cái quyền đó, thành ra, dường như Kiều chưa
được trang bị đầy đủ để ngồi ở vị trí quan tòa luận tội, và Từ Hải tuy
"cùng ngồi" trên bục quan tòa mà hóa ra như thừa!
Vì thế cho nên, việc đền ơn cho
Thúc Sinh không thể được coi là trọn vẹn tốt đẹp và việc trả oán không
phải là không có mâu thuẫn, gây nên tranh cãi xưa nay.
Ta hãy xem Kiều đền ơn Thúc
Sinh. Mở đầu đoạn: "Cho gươm mời đến Thúc lang". Kể cũng lạ ở cái nghi
thức "cho gươm mời", dù là nghi thức thể hiện sự trang trọng ở nơi công
đường, người được đưa đến để đáp đền ơn nghĩa, bất cứ ai sẽ không bao
giờ ưa cái nghi thức ấy. Nhất là với Thúc Sinh, bản chất con người bạc
nhược thế nào chắc Kiều đã quá hiểu. Chẳng trách gì mà anh ta nát cả
thần hồn, bộ dạng thật thê thảm: "Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run".
Nỗi sợ hãi từ phút đầu tới phút chót khiến cho chàng câm lặng, tuyệt
nhiên không có bất kì một cử chỉ hoặc một câu cảm tạ nào!
Lời Kiều nói với Thúc Sinh gợi về quan hệ quá khứ giữa hai người: "Nàng
rằng: Nghĩa nặng nghìn non/ Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?/ Sâm
Thương chẳng vẹn chữ tòng/ Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?/ Gấm trăm
cuốn, bạc nghìn cân/ Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là"...
Âm điệu của những câu thơ ít có
sự ngắt nhịp mau nghe êm đềm phù hợp với lời nói dịu dàng, thể hiện
được phần nào chân tình của Kiều. Bởi công bằng mà xét, Thúc Sinh quả là
người có công khi cứu vớt nàng ra khỏi lầu xanh Tú Bà nhơ nhớp và quả
là có thương xót nàng trong lúc bị Hoạn Thư đánh ghen cay nghiệt. Nhưng
từ trong bản chất, Thúc Sinh là kẻ không dám xả thân vì người yêu nên
cuối cùng bỏ cuộc nửa vời. Là người thông minh, nhạy cảm, Kiều hiểu được
thực chất tình cảm ở con người này. Thế cho nên, đền ơn Thúc Sinh,
trong lời lẽ của Kiều vẫn có chút gì gượng gạo. Sự gượng gạo đó được phủ
lên bằng lớp từ hoa mĩ mang phong cách ngôn ngữ ước lệ, khuôn sáo:
"nghĩa nặng nghìn non, Sâm Thương, chữ tòng, há dám phụ lòng cố nhân".
Thêm một chi tiết cần lưu ý: lễ
vật đền ơn. Với mụ quản gia và vãi Giác Duyên là: "Nghìn vàng gọi chút
lễ thường/ Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân". Họ được đền đáp bằng
vàng, tương ứng với tấm lòng tốt vô tư của họ. Còn với chàng Thúc lại
là: "Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân". Không nói chuyện lớn nhỏ, chỉ thấy
chúng có sự khác biệt nhau về tên gọi và giá trị. Điều này đủ thấy Kiều
là người thật rạch ròi, sòng phẳng và tinh tế.
Cuối lời đối thoại với Thúc
Sinh, Kiều lại tung ra một tràng lời đe nẹt Hoạn Thư với một ngữ khí nôm
na, quyết liệt đối lập với những lời cao nhã vừa rồi. Tiết tấu các câu
thơ nhanh, dứt khoát, thành ngữ dân gian dày đặc khiến cho Kiều như vụt
chuyển thành một người khác, đáo để một cách rất ... đàn bà: "Vợ chàng
quỷ quái tinh ma/ Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau/ Kiến bò miệng chén
chưa lâu/ Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa". Nếu quả thực Kiều hàm ơn
sâu sắc và trân trọng Thúc Sinh, thiết nghĩ nàng sẽ không nỡ nói ra
những lời cay nghiệt ấy...
Như đã nói trên, chủ tọa phiên
tòa - xét theo tính hợp lí của đời sống thực, phải là Từ Hải, người
ngoài cuộc. Oái oăm ở đây lại là Thuý Kiều, cùng lúc là nguyên cáo lẫn
quan tòa. Mà phiên tòa chủ yếu giải quyết những ân oán cá nhân lại được
phơi giữa ba quân, nơi thanh thiên bạch nhật. Bởi vậy, mọi phán quyết
không thể tùy tiện chủ quan mà phải phù hợp với lẽ phải và lòng người.
Vả chăng, một phiên tòa chân chính, vai trò của luật sư bào chữa luôn
được đề cao. Ở đây, Hoạn Thư - bị cáo - đồng thời kiêm luôn trạng sư cho
mình.Trước đây, tư thế bị động của một người đàn bà trước nguy cơ "bị
cướp chồng", nàng đã nhanh chóng nắm vai trò chủ động và trở thành đạo
diễn tài ba của màn kịch: "Làm cho nhìn chẳng được nhau... Cho người
thăm ván bán thuyền biết tay". Giờ đây, trước tình thế liên quan đến tồn
vong của danh dự và tính mạng, Hoạn Thư đã tỏ ra vô cùng xuất sắc. Có
thể nói, Hoạn Thư là nhân vật phụ nữ sinh động, đáng nể và đáng sợ nhất
trong số những nhân vật phụ nữ của "Truyện Kiều"! Thúy Kiều hơn Hoạn Thư
ở tấm lòng nhưng không bao giờ là đối thủ của Hoạn Thư về mưu trí, kể
cả ở màn Báo oán này.
Hãy xem Thuý Kiều vào vị trí quan tòa xử tội: "Thoắt trông nàng đã chào thưa:/ Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây".
Câu "chào thưa" mát mẻ, mỉa
mai, đay nghiến tuy có phản ánh cái thế "thay bậc đổi ngôi", ngầm kiêu
của Kiều, nhưng thực ra không có nhiều tác dụng để áp đảo đối phương
"ngay từ loạt đạn đầu", mà vô tình nó lại giống như một sự khơi gợi lòng
kiêu hãnh của dòng dõi trâm anh thế phiệt ở ả ta mà thôi.
Rồi sau đó là một tràng lời đe nẹt chung chung, không có nội dung luận tội cụ thể: "Đàn bà dễ có mấy tay/ Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan/ Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
Hầu như tất cả đều là những
dáng dấp của thành ngữ dân gian để nói về đàn bà và lẽ đời nhân quả nói
chung. Hớ hênh, vô ý hay là khó nói, Thuý Kiều như đã vô tình gợi ý cho
Hoạn Thư quỷ quyệt để ả có cơ hội chộp lấy và xoáy sâu vào hai chữ "đàn
bà", "thói hồng nhan" trong lời tự bào chữa.
Sau một thoáng sợ hãi "hồn lạc
phách xiêu", Hoạn Thư nhanh chóng tìm ra con đường thoát thân tuyệt hảo
bằng tất cả sự khôn ngoan vốn có.
Về lẽ chung, "Dễ dàng là thói hồng nhan/ Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
Đúng là như thế, nhưng cùng với nó còn một quy luật nữa, cô (Thuý Kiều)
cũng cần phải hiểu: "Rằng: "Tôi chút phận đàn bà/ Ghen tuông thì cũng
người ta thường tình"; "Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai".
Nếu Thuý Kiều đánh trúng vào
cái tội tàn ác, cay nghiệt trước đây của Hoạn Thư, thì Hoạn Thư đã khôn
khéo lái mũi tên sang hướng khác: Đàn bà với chuyện ghen tuông! Bằng sự
phản bác đúng lí, Hoạn Thư đã nhanh chóng san hòa 1-1, lập lại thế cân
bằng giữa quan tòa và tội phạm. Từng từ ngữ một, Hoạn Thư đều cân nhắc
kỹ lưỡng: Không chỉ "đàn bà" mà còn là "chút phận" (thu nhỏ hết mức thân
phận vốn mỏng manh); "người ta" (quy luật phổ biến), "thì cũng" (tất
yếu), "thường tình" (đó là chuyện dễ hiểu); "chưa dễ ai chiều cho ai"
(ai lâm vào cảnh ấy, kể cả cô - Thúy Kiều - cũng hành xử thế thôi!). Qua
lời Hoạn Thư, đòn ghen hiểm độc xưa kia mà ả dành cho Kiều trở thành
nhẹ tênh.
Về lẽ chung thì như thế, còn tình riêng: "Nghĩ cho khi gác viết kinh/ Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo".
Đây là đòn phản công hiểm ác
nhất nhằm hạ uy thế quan tòa của Kiều. Một câu khiêm nhường: "nghĩ
cho..." mà chẳng khác nào kim châm đau nhói vào tâm khảm của Kiều. Vì nó
nhắc nhớ đến tháng ngày ở Quan Âm các với tâm trạng hoang mang lo sợ
"miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này", đến - đặc biệt đến - việc Kiều chạy
trốn có mang theo chuông vàng khánh bạc để độ đường phòng thân mà không
bị Hoạn Thư truy đuổi. Cái ân: "đánh" xong mở cửa cho ra của Hoạn Thư
đối với Thuý Kiều, đó là hiện thực. Công bằng mà xét, so với lũ Mã, Sở,
Bạc..., Hoạn Thư hơn chúng là không đẩy Kiều tới bước đường cùng và
không phải không có lúc ứng xử với Kiều một cách "quân tử".
Và nữa: "Lòng riêng riêng những
kính yêu", lý lẽ này của Hoạn Thư cũng có cơ sở thực tiễn khá vững
vàng, bởi đã có đến ba lần Hoạn Thư vì "tri ngộ" tài năng của Kiều mà có
phần nương nhẹ, thậm chí thương cảm với Kiều khi nàng trong tay ả.
"Già dơ" hơn, Hoạn Thư gạt lẽ
chung, tình riêng ra một bên, nhận tội lỗi về mình: "Trót đà gây việc
trông gai". Một cách nói giảm nhẹ, khiến người nghe có cảm giác rằng cái
sự đánh ghen có trù liệu kĩ càng, bài bản và cay độc trước đây của Hoạn
Thư dành cho Thuý Kiều chỉ là đã quá tay ngoài chủ ý! Và cuối cùng,
Hoạn Thư đánh vào tình cảm và sĩ diện của đối phương: "Còn nhờ lượng bể
thương bài nào chăng?". Câu nói chứa đựng sự tâng bốc, đề cao lòng nhân
hậu của Kiều và xin xỏ; nhưng xin xỏ mà vẫn giữ được cái thế không van
lơn, cái thế của một người làm chủ tình huống, mang theo cái "hách" của
dòng dõi trâm anh thế phiệt.
Có thể nói, trong màn trả ân báo oán, Hoạn Thư đã bộc lộ sự khôn ngoan kiệt xuất trong vai trò trạng sư tự bào chữa cho mình.
Với lời tự bào chữa đầy thuyết
phục ấy của Hoạn Thư, vị quan tòa Thuý Kiều không thể không tha bổng
cùng vời lòng thầm phục đối thủ: "Khen cho: "Thật đã nên rằng/ Khôn
ngoan đến mực nói năng phải lời/ Tha cho thì cũng may đời/ Làm ra mang
tiếng con người nhỏ nhen/ Đã lòng tri quá thì nên"/ Truyền quân lệnh,
xuống trướng tiền tha ngay".
Xem thế, cuộc đền ơn trả oán
của Kiều lại trở thành dở dang, không trọn vẹn, như tất cả những dang dở
không trọn vẹn trong suốt cuộc đời nàng.
|
Phần nhiều phụ nữ trung niên thích đọc bài viết này. Đôi khi họ không nghĩ vì sao họ lại đọc nó?
Trả lờiXóaThưởng thức Truyện Kiều sẽ thú vị hơn rất nhiều nếu có những bài bình của những người am hiểu (am hiểu về cả văn học và thực tiễn). hoh nhấn mạnh đối tượng thích là "Phần nhiều phụ nữ trung niên" làm HG hơi bất ngờ. HG thiết nghĩ nếu xét khía cạnh "phụ nữ trung niên thích", thì có nhiều cái dễ hiểu hơn để lựa chọn... :)
XóaCâu 1 là...đề bài. Câu 2 hỏi không phải để được trả lời, mà chính là câu trả lời vì sao phụ nữ trung niên (có nhiều trải nghiệm và đang trải nghiệm) thích đọc và hiểu sâu sắc bài viết :-) !
Trả lờiXóaCuộc sống ẩn vào thi ca. Mẹ hoh (bà đã là người thiên cổ 8 năm rồi!) một hôm ngồi ăn mít cùng các con, bỗng tủm tỉm đọc: "Mít ngon anh chén cả xơ, chị xinh em đẹp, anh quờ cả hai!" Mấy chị em há hốc mồm quên cả ăn. Với lại câu thơ ngọt lịm, ăn nữa nhạt miệng nhạt mồm.
Trả lờiXóaRồi một hôm sẩm tối mà chưa có điện, bỗng sấm đì đùng trời động mưa. Mẹ hoh tự nhiên đọc: "Nhân kì thanh, bất kiến kì hình, Đại nhân khai khẩu tiểu nhân kinh"! Nghe tiếng nhưng chưa được gặp mặt, Khi ông mở miệng, trẻ nhỏ khiếp vía. Nghe rồi không ai chú ý lắm, lặng im. Mẹ hoh thong thả giải thích: đó là câu đố về ông Ba bị! Ôi tuyệt vời...
Trả lờiXóaBố hoh thì kể (cụ lại còn vẽ minh họa, cụ là họa sĩ) một người thời Pháp thuộc dự thi viết về đề tài xe hỏa, trong bài viết có trích Kiều: "Đùng đùng gió giật mây vần, một xe trong cõi hồng trần như bay". Quá đúng: máy nổ ầm ầm, ống khói mù mịt, lò than đỏ rực, chạy nhanh thình thịch... không xe hỏa thì còn là gì được. Bài viết đoạt giải nhất và Việt Nam có xe lửa từ thời Nguyễn Du, Kiều là hành khách VIP! :-)
Trả lờiXóaHG cảm ơn hoh đã chia sẻ... Bố và mẹ của hoh chắc đã hợp ý tâm đầu lắm ạ? Cầu mong thực sự có cõi tâm linh bên kia thế giới... Mà nếu không, thì cũng không sao, vì thực sự linh hồn bà vẫn luôn sống động trong những hồi ức đẹp của hoh...
Xóa