HG: Cùng trên đất Việt mà ngỡ như một thế giới khác mà mình mới làm quen. Một quãng đời của đất nước, một con đường văn học... Vì đâu có những vẻ đẹp đến thế này, mà bây giờ mình- một người có thể gọi là khá ham đọc- mới được lần hồi tiếp xúc. Vì đâu nên nỗi?
Truyện ngắn với khuynh hướng văn chương hoài niệm, phảng phất đâu đây hồn "Thương nhớ mười hai" của nhà văn Vũ Bằng- một tác phẩm giá trị tuyệt vời từng bị cấm đoán bao năm. Phải chăng...?
NGƯỜI ĐÁNH MÁY CHỮ
Truyện ngắn
Nguyễn Đức Tùng(*)
Minh họa: Lê Minh Phong. Tạp chí Sông Hương |
Cô có mấy chồng báo cũ để người chờ lật
coi cho đỡ nóng ruột. Tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ sau kẹt cửa, đọc các
tạp chí như Tự Do của chính phủ có ảnh đẹp, Hương Quê của bộ Thông tin
đều đặn có truyện ngắn đồng quê của Bình Nguyên Lộc hoặc Sơn Nam, các
nhật trình như Độc lập, Hòa bình, Sóng thần, Công luận, ngắm mấy tờ
carbon, lắng nghe cuộc chuyện trò khi lớn lúc khẽ giữa cô và khách hàng.
Thỉnh thoảng cô đứng dậy bật bếp lửa dầu hỏa ở góc nhà, chùm lửa xanh
ngọn nhỏ liu riu, đun nước sôi pha trà Thiết Quan Âm trong ấm sành, cho
tôi uống, di chuyển mau lẹ giữa những chồng giấy cao ngất. Hiệu của cô
không tên, không có chỗ ngồi rộng rãi, ở trên đường vắng chạy ra bờ
sông, không quảng cáo nhưng người có việc cần đều biết cách tìm đến.
Ngoài hiên một cây dâu tằm cổ thụ cao rợp mát, những trái dâu đỏ mọng
ngọt lịm, lá xanh mềm mại ngày nay không thấy nữa. Ngày mưa dầm nắng gắt
đi học về muộn trễ chuyến đò cả giờ, tôi quay lại ghé vào, cô im lặng
làm việc nhưng thỉnh thoảng quay nhìn tôi, mắt như cười, ấm áp. Đôi khi
một ông khách đứng tuổi lịch sự, da tái xanh, má hóp, tóc chải dầu
brillantine bóng, sơ mi trắng, cầm dù đen bất kể trời mưa hay tạnh, đứng
ngoài cửa sổ trò chuyện, đưa giấy tờ hay trả tiền gì đó, nhưng có khi
chỉ nói vài câu rồi đi. Những lúc ấy cô đứng lên, tựa người lên thành
cửa, khoanh tay trước ngực trò chuyện. Sau khi ông khách đi rồi, cô kín
đáo mỉm cười, ngửa đầu ra sau, nhắm mắt lại, mở mắt, quay về với công
việc. Như thế, năm này qua năm khác, hết niên học này đến niên học khác
của tôi, như thể cuộc đời này sẽ trôi đi êm đềm như vậy mãi với cô,
không bao giờ thay đổi, không bao giờ ngừng lại, mà thay đổi cho ai,
cách mạng làm gì, chiến tranh chết chóc làm chi?
Đôi khi tôi chợt nghĩ hay cô là cô Mai,
nhân vật của Khái Hưng trong Nửa Chừng Xuân, con ông Tú ngoài Ninh Bắc?
Có em trai học trường Bảo hộ, tức trường Bưởi, nhà nghèo vì cha mất sớm,
đem lòng yêu Lộc, nhưng rồi chuyện hai người không thành. Cô Mai đẹp,
dịu dàng, cương nghị, trái tim đầy tình yêu thanh sạch. Có lúc tôi ước
làm cậu Huy em trai của cô, đứa em học trò nghèo thương chị đến ứa nước
mắt. Tôi ngồi nhìn những chiếc máy chữ nghiêm trang nằm ngoan ngoãn dưới
hai bàn tay lượn nhấp nhô như sóng, cô dùng tám hay mười ngón để gõ
phím, cổ tay thoăn thoắt đưa đi đưa lại, những cái cần bằng kim loại xám
óng ánh nhảy nhót như vũ nữ phim Ấn Độ. Nhưng chiến sự đổi chiều không
báo trước. Trong hai ngày hai đêm, những đơn vị sư đoàn bộ binh trú đóng
căn cứ Ái Tử và Đông Hà hỗn loạn rút quân qua sông, bỏ lại chiến xa vũ
khí, và điều đó sẽ lập lại đúng ba năm sau ở những nơi khác, người dân,
viên chức kinh hoàng di tản, họ bị pháo kích ác liệt chặn lại trên quốc
lộ, chạy lui chạy tới như kiến trên chảo rang dưới nắng tháng tư. Không
khí nóng đặc lại, hoa phượng mới ra héo rũ nhưng không tàn, cuống non
khô đi không chịu rơi xuống đất. Ngày cuối cùng trước khi ra đi tôi lang
thang trên đường không người, mặt nhựa chảy mềm dưới trời xanh bao la,
sự yên tĩnh của nó buông xuống mặt đất một không khí dị thường không ra
chiến tranh chẳng phải hòa bình, bầu trời như nhật thực, tôi đi trên
đường biên, giữa một vùng tối đen và một vùng sáng rực, nhưng cái đường
biên kia di chuyển mau lẹ quá, nó chạy vùn vụt, tôi cố đuổi theo không
kịp, vấp ngã trên những hầm hố công sự hay trên những thây người rải rác
đó đây quanh quốc lộ một, gần ngã ba Long Hưng. Đi ngược về trung tâm,
tôi đến trước những địa chỉ yêu dấu, trường Bồ Đề, Phước Môn, Thánh Tâm,
Nguyễn Hoàng, hiệu sách Lương Giang, Phú Long, Tao Đàn, chào nhau lần
cuối. Chắc chỉ có mình thôi, tôi nghĩ, là đứa lẩn thẩn đi chào bến đò
chợ tỉnh nhiều bậc tam cấp đọng vảy cá trắng xóa, bốc mùi cá tanh, chào
chùa Tỉnh hội rợp bóng ngô đồng, im bặt tiếng chuông, chào tiệm vải chất
đầy tơ lụa mẹ tôi hay ghé qua, quán tiết canh vịt của ba tôi, tiệm cháo
bánh canh của các chị tôi, đứng hồi lâu trước quán bi-da của bạn bè,
những hòn bi xanh đỏ lăn lóc góc bàn, tôi cầm lên bỏ xuống.
Trong chiều nắng xế, thành phố sắp biến
mất trông như huyền thoại. Tôi đứng tần ngần trước căn nhà khang trang
ngoài hiên có cây lê ki ma mỗi mùa xuân đều nở hoa trắng của người bạn
gái cùng lớp, nhìn cánh cổng sơn xanh đóng im ỉm, lần cổng ấy ngày sau
mạng nhện sẽ giăng đầy, hai con bồ câu trắng đứng rù rì chụm đầu vào
nhau trên khoảng sân gạch gần ảng nước mưa, mặt nước có một lá sen nửa
lành nửa rách. Tôi tìm đến tiệm người đánh máy chữ, cửa ra vào đóng, ổ
khóa còn nguyên nhưng cửa sổ đã bị ai mở bật tung ra, tôi nhìn quanh một
lúc, leo vào bật công tắc, không điện, có lẽ cô đã ra đi cùng lúc với
hàng chục ngàn người tị nạn chiến tranh khác nhưng cũng như họ, yên chí
rằng sẽ trở lại trong vài ngày tới, khi tình hình chiến sự yên ổn. Mùi
hơi quen thuộc phảng phất, vài tờ giấy carbon đen lả tả trên sàn nhà,
tôi cầm lên kề sát mũi hít hà những tờ giấy carbon cũ thơm phảng phất
mùi hạnh đào, mùi ô mai tẩm đường, mùi quế hơi gắt, trên bàn ba chiếc
máy đánh chữ vẫn còn nguyên. Tôi tiến lại gần, nhìn xuống một tờ giấy
đang nằm trong máy giữa chừng, chiếc màu xanh ngọc bên trái, liếc qua
mấy chữ trên cùng:
GIẤY TỪ CON
Tôi ngạc nhiên, kéo ra đọc tiếp.
Họ tên cha mẹ…Con trai của chúng tôi
là…Sinh ngày… Học sinh lớp Đệ tứ, trường…Chúng tôi làm đơn này đăng lên
nhật trình để thông cáo: kể từ ngày…chúng tôi không nhận … là con trai
trong gia tộc. Lý do: không nghe lời nghiêm phụ, bỏ bê việc học, trốn
nhà theo gánh hát cải lương Kim Chung. Nay kính trình…Ngày…
Tôi đứng hồi lâu giữa căn phòng tối sẫm,
mặt trời bên kia sông đang xuống sau rừng dương liễu Nhan Biều, ngả sang
màu lửa lựu, vài con chim sẻ kêu thảng thốt trên mái ngói, một cành cây
khô rơi xuống mặt đường, nẩy bật lên, lăn đi nhiều vòng, trong tịch
mịch của phố xá bỏ hoang, những ngày bầy chim vỡ tổ bắt đầu. Tôi nghĩ
đến chàng thanh niên có lẽ chừng đôi mươi giờ này vẫn chưa đọc được cái
tin sét đánh trên báo của thân phụ anh, một người thương con nhưng có lẽ
quá nghiêm khắc, tôi nghĩ đến cha mẹ người thanh niên kia giờ phiêu dạt
nơi đâu, ga Lăng Cô hay bến tàu Đà Nẵng, hay đã tử nạn trên đường. Tôi
nghĩ đến gánh cải lương miền Nam ra trình diễn ở thành phố gần giới
tuyến trong ngày xuân thanh bình, trong gánh hát ấy biết đâu có một cô
đào trẻ đẹp với giọng ca mê hoặc, sáng hôm sau lên đường khăn gói vào
Nam, không biết mình vô tình mang theo trái tim một chàng trai Đệ tứ
trung học, mê tân nhạc, vọng cổ, ghi ta, đờn sáo hơn chuyện học hành thi
cử lẩm cẩm, biết đâu sau này chàng nổi tiếng ở Sài thành hoa lệ, thành
công rạng rỡ về quê trong sự chào đón của khán thính giả như Út Trà Ôn,
hay biết đâu anh lầm đường lạc lối, bị hắt hủi giữa chừng, thất bại chốn
phồn hoa, đói khổ, một chiều dừng lại bên đường nhìn hạt bụi trong tia
nắng xiên khoai mà ngoái về quê cũ.
Nhưng quê cũ của anh đá nát vàng phai có
đâu nữa mà ngoái lại? Hay biết đâu vài mươi năm sau, hai cha con nơi đất
khách lại làm hòa với nhau, ôm nhau mừng tủi, bằng cách nào thì tôi
không biết, nhưng thế nào cũng có cách, vì cha mẹ và con cái, hay anh
chị em trong nhà, giận nhau vì lối sống, cãi nhau vì chính kiến, nhưng
bỏ nhau hoài sao đặng. Phải không? Khi đó người cha biết đi tìm đâu
người phụ nữ đã đánh máy cho ông, khẩn khoản đòi xin lại một tờ giấy cũ
vàng ố, lẳng lặng cho vào ngọn lửa xanh lơ trong tiếng máy chữ rào rào
chiều chạng vạng. Gần như vô thức, tôi gập nhỏ nhiều lần tờ giấy đánh
máy, nhét vội vào túi quần sau, cài cúc, nhảy qua cửa sổ, với tay khép
cánh cửa mà đi.
------------------------------------------------------------------------
(*) Nguyễn Đức Tùng là một Bác sĩ – Nhà văn hiện sống ở
Canada. Anh chữa bệnh, làm thơ và viết nghiên cứu phê bình văn học. Thơ
của anh theo phong cách lập tứ hiện đại. Văn nghiên cứu phê bình của anh
khúc chiết, lại giàu tình cảm. Tuy vậy, những cảm thức của anh về văn
chương thường tạo ra những ý thức hay quan niệm mới mẻ.
Văn học tiền chiến miền nam, có những truyện ngắn rất hay, nhưng ít đến tay người đọc. Có thể tìm ở thư viện online của người trước 1975 sống ở MN.
Trả lờiXóaThế ạ, HG sẽ tìm đọc. Cùng thời gian đó, văn học hai miền quả là nhiều khác biệt...
Xóa