Trang

Thứ Hai, 15 tháng 7, 2013

Nguyễn Bỉnh Khiêm- Nhà tiên tri


1. Tiểu sử

      Nguyễn Bỉnh Khiêm  sinh năm 1491, mất năm 1585, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Sinh trưởng trong một gia đình danh gia vọng tộc, thân phụ ông là cụ Văn Ðình người học rộng tài cao, lại có đức tốt, được sung chức Thái Học Sinh, sau được tặng phong Thái Bảo Nghiêm Quận Công, mỹ tự là Văn Định, Đạo hiệu là Cù Xuyên Tiên Sinh, thân mẫu ông là Nhữ Thị Thục, con gái quan thượng thư Nhữ Văn Lan, người đất Tiên Minh, làng An Tử hạ có học vấn cao... Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã hấp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương của gia tộc. Ông ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Nhữ Văn Lan, đã làm rạng rỡ dòng họ và quê hương với bảng vàng tiến sĩ, khoa thi năm Quí mùi, niên hiệu Quang Thuận, đời Lê Thánh Tông, được nhà Vua tin dùng, phong chức Thượng thư bộ Hộ.
            Theo Vũ Phương Đề ghi lại trong Công Dư Tiệp Ký, sinh thời ông có đến ba vợ. Con cái cộng 12 người, 7 trai 5 gái.  Tất cả mấy người con đều có lập được quân công.
              Những năm Quang Thiệu (1516-1526), đất nước loạn lạc, Ông về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, khi nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tĩnh ông mới chịu ra ứng thí, khi ấy đã 44 tuổi, khoa hương thi ấy, ông được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đối, lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhất danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, Ông có làm 2 bài thơ " Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
             Cộng tác với tân triều  được 7 năm, sau khi dâng sớ xin chém 18 tên quyền thần (trong đó có cả con rể ông là Phạm Dao ỷ thế lộng hành) mà không được chấp nhận, ông cáo quan xin về trí sĩ giữa năm Quảng Hòa thứ 2 (1542), khi mới 52 tuổi.
Về làng trí sĩ, ông dựng Am Bạch Vân ở phía tả chỗ làng ông ở và vẫn lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, trong thời gian dưỡng lão, tuy không trực tiếp dự quốc chính, nhưng họ Mạc vẫn phải kính trọng đối đãi với ông như với một ông thầy, những việc trọng đại thường sai sứ giả về hỏi, có khi lại đón lên kinh thành để hỏi, ông đều ung dung chỉ dẫn, xong rồi ông lại trở về am cũ, họ Mạc giữ lại cũng chẳng được, về sau phải liệt vào hạng nhất công thần, phong tước là Trình Tuyền Hầu, dần dần thăng đến Lại Bộ Thượng Thư Thái Phó Trình Quốc Công. Ông Bà nhị đại cũng được phong ấm, 3 người thê thiếp với 7 người con cũng theo thứ tự phong hàm.
Năm Thuận Bình thứ 8 (1556), Lê Trung Tông mất, không có hoàng nam nối ngôi. Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do dự không biết lập ai, hỏi Trạng nguyên Phùng khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, nên mới phải sai gia nhân ngầm đem lễ vật về tận Hải Dương để hỏi, ông không trả lời mà chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng : "Vụ nầy lúa không được mấy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy các ngươi phải đi tìm giống cũ để mà gieo mạ." Nói xong, ông lại lên xe ra chùa, sai các chú tiểu quét dọn đốt hương, ngoài ra không hề đả động gì đến chuyện khác, bởi vì ông đã hơi tỏ cho biết cái thâm ý là : Cứ việc thờ Phật thì được ăn oản. Trạng Phùng thấy thế vội vàng về báo, Trịnh Thế Tổ hiểu ngay, bèn đón Anh Tông (Lê duy Bang) về lập, tình thế trong nước mới được ổn định.
Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con Chiêu Huân Tĩnh Vương, đương lúc ở trong tình thế nguy ngập vì sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm. Thân mẫu Nguyễn Hoàng vốn dòng họ Phạm đã được tôn là Thánh mẫu, nguyên quán ở làng Phạm Xá thuộc huyện Tứ Kỳ, với ông là chỗ đồng hương, nên thường bí mật sai người về làng nhờ ông chỉ giúp cho con trai bà một đường sống. Sứ giả đặt gói bạc nén ở trước mặt ông, rồi bái lạy lia lịa. Ông thấy sứ giả năn nỉ mãi, nhưng vẫn không nói gì, rồi đứng phắt lên, tay cầm chiếc gậy, thủng thỉnh ra lối vườn sau, là nơi có hơn 10 tảng đá xanh xếp thành một dãy núi giả (non bộ) quanh co, trước núi lúc ấy có những đàn kiến dương men theo tảng đá leo lên. Ông ngắm nghía chúng một lát rồi mỉm cười đọc một câu :"Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân", nghĩa là : Một dãy Hoành sơn có thể dung thân được.
Sứ giả hiểu ý trở về thuật lại với Nguyễn Hoàng. Hoàng bèn xin vào trấn thủ Quảng nam, hùng cứ cả một vùng đó, làm tiền đề lập nên triều đại nhà Nguyễn Gia Long...
Tháng 11 năm 1585, ông lâm bệnh. Mậu Hợp sai sứ đến vấn an và hỏi về quốc sự. Ông chỉ trả lời rằng : "Tha nhựt quốc hữu sự cố, Cao Bằng tuy tiểu khả duyên sổ thế." , nghĩa là : Sau nầy quốc gia hữu sự thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng giữ thêm được mấy đời. Quả nhiên, cách 7 năm sau thì họ Mạc mất, rồi các Chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương, rút lui lên giữ Cao Bằng được 70 năm, nghĩa là sau 3, 4 đời thì mới hoàn toàn bị diệt, coi đó thì lời nói của ông dự đoán chẳng sai chút nào.
 Ngày 28 tháng ấy thì ông tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò suy tôn hiệu là "Tuyết Giang Đại Phu", phần mộ ở trên một cái gò đất trong làng. . . . . . . . . . .
Ông có nhiều môn sinh tiếng tăm lừng lẫy như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, và Trương Thì Cử, sở học đạt đến độ uyên thâm, và sau đều là các bậc danh thần trong thời Trung hưng.
Khi Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ xứ Thanh, có một đêm ông đến chỗ nhà trọ của Khoan gõ cửa bảo rằng: Gà gáy rồi đấy, sao anh chưa dậy nấu ăn mà còn nằm ỳ ở đó. Khắc Khoan hiểu rõ ý thầy nên vội thu xếp lẻn vào vùng Thanh Hóa, nhưng lại ẩn cư với Nguyễn Dữ.  Nguyễn Dữ có soạn ra bộ Truyền Kỳ Mạn Lục, một cuốn Thiên cổ kỳ bút, được Nguyễn Bỉnh Khiêm phụ sửa rất nhiều.
Các tác phẩm văn học ông để lại cho đời chủ yếu là thơ quốc ngữ, qua cuốn Bạch Vân Thi Tập và một thiên Trung Tân Quán Phú, và một cuốn gọi Sấm trạng theo dạng sách bí truyền trong dòng tộc, theo thời gian dần thất lạc, mai một dần.
Sau khi ông mất mãi đến năm Vĩnh Hựu nguyên niên (tức là năm Ất Mão 1735), người trong làng mới dựng 2 tòa miếu ngay ở nền nhà cũ để thờ ông, miếu thờ đó hiện nay vẫn tiếp tục được duy tu, tôn tạo, và năm 1991 đã được UBND thành phố Hải Phòng ra quyết định tu tạo nâng cấp thành di tích lịch sử.
 Hiệp hội UNESSCO đã tổ chức cuộc hội thảo về thân thế sự  nghiệp và các công trình văn học của ông.
Ông cũng được phối thờ tại khu văn miếu Mao Điền thuộc huyện Cẩm Giàng. tỉnh Hải Dương.
Dân gian còn lưu truyền nhiều truyền thuyết về tài năng tiên đoán vận nước của ông sau hàng ba, bốn thế kỷ  như câu thơ trong cuốn sấm trạng:

Nước Nam từ họ Hồng bàng,             
Biển dâu cuộc thế, giang san đổi dời. 
Từ Đinh Lê Lý Trần thuở trước,  
Đã bao đời ngôi nước đổi thay.
Núi sông Thiên định đặt bày, 
Đồ thơ mấy quyển, xem nay mới rành. 
 . . .             
Cửu cửu Càn Khôn dĩ định,             
Thanh minh thời tiết hoa tàn.            
 Trực đáo dương đầu mã vĩ,            
 Hồ binh bát vạn nhập Tràng an.            
 Nực cười những kẻ bàng quan,             
Cờ tan lại muốn toan đường đá xe.             
. . .             
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh,             
Can qua xứ xứ khởi đao binh.             
Mã đề dương cước anh hùng tận,            T
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
...
Qua những tư  liệu trên và qua thực tế chứng minh ta thấy sức sống siêu việt của  trí tuệ Nguyễn Bỉnh Khiêm thật đáng tôn vinh, xứng đáng là Bậc thầy tiên tri của mọi thời đại.

2. Một số truyền thuyết xung quanh Sấm Trạng 

 Nguyễn Công Trứ  (1778-1858)  phá đền

Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14, Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi :
                        Minh Mạng thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền
Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay
 Nguyễn Công Trứ lập tức thảo sớ về kinh, xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng khang trang hơn. Từ đó, ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông nữa.

  Cha con thằng Khả

 Tục truyền trong làng có cha con ông Khả đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính trạng Trình, nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau:
                                  Cha con thằng Khả.
                                 Đánh ngã bia tao
          Làng xóm xôn xao
          Bắt đền tam quán
  Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. Chỉ tìm được có một quan tám, dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ mới tìm được cách, cha con bèn nói với dân làng:  Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, "Tam quán" nói lái lại thành quan tám, đúng như cha con ông Khả đã tìm đủ số tiền
 Thơ văn của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Kiêm còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc ngữ thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa, ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian.... và những lời sấm ký có giá trị. 

3. Một số bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm

           Cảnh nhàn
 Một mai, một cuốc, một cần câu
             Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
             Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
             Người khôn, người đến chỗ lao xao
             Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
             Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
             Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp

             Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao 

          Thói đời li
 Vụng khéo nào ai chẳng có nghề
             Khó khăn phải lụy đến thê nhi
             Ðược thời, thân thích chen chân đến
             Thất thế, hương lân ngảnh mặt đi
             Thớt có hôi tanh, ruồi muỗi đậu
             Sanh không mật mỡ, kiến bò chỉ
             Ðời nay những trọng người nhiều của
             Bằng đến tay không, mấy kẻ vì.  

           Thói đời...
 Thế gian biến đổi vũng nên đồi
             Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
             Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
             Hết cơm, hết rượu hết ông tôi
             Xưa nay đều trọng người chân thực
             Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi
             Ở thế mới hay người bạc ác
             Giàu thì tìm đến khó tìm lui

           Tự thán
 Gần son thì đỏ, mực thì đen
             Sáng biết nhờ ơn thửa bóng đèn
             Ăn uống miễn theo nơi phép tắc
             Tới lui cho biết lẽ kinh quyền
             Chăng nên mặc thế người lành dữ
             Giáo giở thây ai thói đảo điên
             Ở thế, có khôn thời có khó
             Chữ rằng: vô sự tiểu thần tiên. 

-------------------------------------------------------------

Tư liệu theo các nguồn:


3 nhận xét:

  1. HG nên phê bình Ông này vì có khuyết điểm lấy 3 vợ nhé! :) Chưa kể còn "thờ Phật thì được ăn oản"!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Phê bình chả ăn thua đâu ạ! Với lại ông nội HG cũng có ba vợ. Giả sử ông không có bà hai, là sẽ không có HG trên đời, HG quyết lòng biết ơn chế độ phong kiến- Đúng là "thờ Phật thì được ăn oản" ạ! ^^
      Mà thôi được rồi, truyền thống nhưng cũng phải hội nhập... Nể góp ý của CCK, nếu được (hỏi ý kiến), HG sẽ bỏ phiếu "tín nhiệm thấp" hoặc cao lắm là "tín nhiệm" chứ quyết không thể để "cao" được! :))

      Xóa