Bùi Văn Bồng: Nên hiểu kỷ niệm 27/7 không chỉ tưởng nhớ, tri ân và
tôn vinh các liệt sĩ, thương binh từ thời chống Pháp trở lại đây. Phải
hiểu rằng chúng ta tưởng nhớ, tri ân và tôn vinh các anh hùng liệt sĩ,
thương binh, những người đã đổ xương máu vì độc lập tự do của tổ quôc
trong suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Nhân tra cứu
các nguồn thông tin tư liệu lịch sử, xin kể câu chuyện về một liệt sĩ,
anh hùng đã hy sinh cách đây hơn 400 năm, đó là Giang Văn Minh.
VINH DANH MỘT SỨ THẦN NƯỚC NAM
Tô Văn Trường
Giang
Văn Minh sinh năm 1573, tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá,
huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây trước năm 1945, nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội.
Giang Văn Minh học giỏi, đỗ đạt cao làm quan Triều Lê, nổi tiếng thanh
liêm, cương trực và ứng đối giỏi. Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi
Đình lại đỗ Thám hoa
[do không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, nên Giang Văn Minh tuy
chỉ là Thám hoa, vẫn là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi – BVN] khoa
Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông.
Ở Thái Bình quê tôi, trên tấm bia của chùa Hoa Nghiêm ở thôn Vô Song,
xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có ghi người soạn văn bia năm Dương Hòa thứ 2 (1636) là Phúc Lộc hầu Giang Văn Minh, đỗ thám hoa
khoa Mậu Thìn (1628), chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bộc tự
khanh. Nơi ông sinh ra ở xã Đường Lâm cũng là quê hương của 2 vị vua
nổi tiếng thời xưa là Phùng Hưng-Bố Cái Đại Vương và vua Ngô Quyền.
Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông được vua Lê cử dẫn đầu đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh [1]. Đến khi triều kiến [2], Minh Tư Tông
Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) vừa tìm cách ngăn trở việc công
nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê vừa ngạo mạn có ý coi thường Giang
Văn Minh và muốn hạ nhục đoàn sứ thần nước Nam nên ra câu đối:
"Đồng trụ chí kim đài dĩ lục!" (Cột đồng đến nay rêu vẫn còn xanh)
Câu này có hàm ý nhắc tới việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ – tức Đại Việt – bị diệt
vong) [3].
Sứ thần nước Nam, Giang Văn Minh bình tĩnh đối lại:
" Đằng giang tự cổ huyết do hồng!" (Sông Bạch Đằng từ lâu máu vẫn đỏ)
Ý nhắc đến việc từ xưa đã nhiều lần người nước Nam chiến thắng oanh liệt quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
Câu
đối lại của Giang Văn Minh thật là hoàn chỉnh, cả ý lẫn từ, lại thể
hiện được khí phách hiên ngang anh hùng của dân tộc Việt Nam trước quân
xâm lược. Tức giận vì bị làm bẽ mặt, bất chấp phép tắc ngoai giao, vua
Minh đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người
mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”[4]. Nhưng sau cảm
phục khí phách can đảm anh hùng của sứ thần nước Nam, vua Minh cho ướp
xác Giang Văn Minh bằng bột thủy ngân để đưa về quê xã Đường Lâm an
táng.
Mộ Sứ thần Giang Văn Minh ở Đường Lâm |
Hiện
nay, ngôi mộ của Giang Văn Minh thường xuyên được du khách đến thăm
viếng với lòng biết ơn, kính phục, ngưỡng mộ. Nhân ngày 27/7 chúng ta
thành kính nghiêng mình thắp nén hương tưởng nhớ Giang Văn Minh, vị anh
hùng liệt sĩ huyền thoại. Chúng ta hãy tưởng niệm hương hồn các liệt sĩ
đã cảm tử cho Dân tộc Lạc Việt trường tồn, nhân ngày kỷ niệm thiêng
liêng 27/7.
(...)
---------------------------------------------------------------------
[1] Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù nhà Mạc đã bỏ chạy ra Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.
[2] Năm Dương Hòa năm thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu
được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi,
Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang giao thiệp với nhà
Minh. Đoàn sứ bộ đến kinh đô Tàu nhưng bị cản trở, phải nằm chờ ở dịch
xá mất gần 1 năm trời.
[3] Về cột đá này, Lê Tắc khi soạn An Nam chí lược (khoảng đầu thế kỷ XIV) đã có ghi với nội dung: "Xưa có truyền lại rằng: Ở nơi động Cổ Sum, tại Khâm Châu (nay đã thuộc đất Trung Hoa (!))có cái cột đồng
của Mã Viện và lời thề rằng: “Hễ cái trụ cột đồng này gãy, thì nước
Giao Chỉ diệt”, vì thế, người Giao Chỉ mỗi khi đi ngang qua đều lấy đá,
ngói, ném vào dưới chân cột đồng, nên chẳng bao lâu, nơi ấy hóa thành
gò…” (An Nam chỉ lược, Sđd, tr.63). Tuy nhiên, do vấn đề nhân thân của Lê Tắc, và nhiều những mâu thuẫn trong quá trình nghiên cứu, những giả thuyết về mục đích Mã Viện dựng cột đồng này cũng như vị trí của nó còn chưa thực sự được xác minh . (Xem thêm ở đây)
[4] Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639).
Đọc thêm:
Vua nhà Minh hôm ấy rất bất bình. Vào ngày khánh thọ nhà vua, các sứ
giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật
đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Việt Nam là không thấy đâu
cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến nơi công quán, đòi sứ giả đến hỏi
nguyên do. Bọn lính đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên
giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra bắt buộc, ông mới
gắng gượng thất thểu đi theo chúng và triều kiến nhà vua. Trả lời câu
hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu
trình:
- Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng
mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên
do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận
trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn,
đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa
trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
-
Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho
nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ
thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn
khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể
“miễn nghị”.
Vị sứ giả Việt Nam lau nước mắt, ngẩng đầu lên, kiên quyết:
-
Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã
nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm
chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều
bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng
chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị.
Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để
cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn
nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những
chuyện xa xôi kia làm bận bịu...
Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ
của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua
đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều
nhà Thanh, vua Quang Trung mới bắt chúng chấm dứt vĩnh viễn cái lệ
này.
Kể cũng tiếc, đối được một câu hay, đổi mạng người.
Trả lờiXóaVâng ạ! Giang Văn Minh sắc sảo, tài năng và quả cảm thế... Thật cảm phục và tiếc thương!
Xóa