Nghiêm Bằng (1)
Không biết bao nhiêu lần, khi đất nước trong dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn, nhất là mỗi khi bài Tiến quân ca vang lên, tôi thoáng nhìn gương mặt cha tôi – nhạc sĩ Văn Cao, niềm vui bỗng hiện lên trong ánh mắt ông. Và trong giây lát, ánh mắt ông lại lặng buồn…
Rồi không chỉ một lần, sau những phút tĩnh lặng với những năm tháng đang trở lại, thấy tôi ở bên, khi đã dần vơi ly rượu nhỏ, giọng ông như nghẹn lại.
Ông khẽ khàng tâm sự với tôi là ông không khỏi không nghĩ đến người bạn, người anh và cũng là người lãnh đạo đầu tiên, trực tiếp giác ngộ ông vào Việt Minh hồi năm 1944 tại Hà Nội. Người đó, đã không giao bất kỳ khẩu súng nào cho ông hoạt động, lại chính thức giao nhiệm vụ cho ông sáng tác ngay một bài hát để hát trong ngày ra đời sắp tới của một đội quân vũ trang khóa quân chính kháng Nhật trên chiến khu Trần Hưng Đạo tại Việt Bắc.
Nhiệm vụ đầu tiên này thật thích hợp với năng khiếu sáng tác bộc lộ từ năm tháng ông còn ở tuổi thiếu niên. Người giao nhiệm vụ đó, chính là Vũ Quý (còn gọi là Quý đen) – một huấn luyện viên bơi lội, xưa từng huấn luyện ông trong hoạt động thể thao tại Hải Phòng, lúc anh đang là lãnh đạo (cùng với các đồng chí Lê Quang Đạo, Nguyễn Văn Trân…) trong Ban cán sự thành phố Hà Nội (nay gọi là Thành ủy). Hải Phòng ngày ấy, là nơi ông sinh ra lớn lên cùng với lứa thanh, thiếu niên trường Bô-nan (nay là trường Ngô Quyền) và cùng dần theo cách mạng sau này.
Ông nhận lời Vũ Quý và ngay hôm đó chính thức gia nhập Việt Minh, bắt tay vào việc sáng tác ngay một bài hát với thể loại hành khúc của một đội quân, khác với những ca khúc trữ tình ông thường quen sáng tác mỗi khi có xúc cảm trong tâm hồn. Ngày đó, là một ngày của tháng 9/1944. Và như ông từng bồi hồi viết lại trong hồi ký “Tại sao tôi viết Tiến quân ca”: “Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà 2 tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những chiếc xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại”… Rồi: “…Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em tôi đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa được gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được”.
Cứ miên man như thế, một giai điệu trong ông bỗng dâng trào và hòa quyện cùng lời ca như bật ra:
“Đoàn quân Việt Minh đi (sau này đổi là Đoàn quân Việt Nam đi)
Chung lòng cứu quốc.
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…"
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng.
"Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…”
Để kết thúc cùng với tiếng thét ở đoạn cao trào, mang dấu ấn từ “Thăng Long hành khúc ca”, một bài ca yêu nước ông đã từng sáng tác trước đó, ông tiếp tục:
“Tiến lên! Cùng thét lên! Chí trai là nơi đây ước nguyền!”
Đến đây, ông như còn nhớ rõ: “Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và hy vọng”. Ông viết tiếp: “Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen sạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh”. Đó là vào một ngày cuối tháng 10/1944. Lúc này, việc nhận nhiệm vụ từ chỉ thị của Trung ương giao, Vũ Quý và ông đã hoàn thành. Ngày ra đời trên chiến khu, Đội quân vũ trang khóa quân chính đã có bài ca xuất trận. (2)
Thật đột ngột cho ông, Vũ Quý đã mất trước ngày Tổng khởi nghĩa 19/8/1945, cái chết mà sau này ông được biết là chưa được làm rõ, khi trên đường anh lên dự Quốc dân đại hội Tân Trào tại Việt Bắc. Cho mãi đến năm 1972, Vũ Quý mới thật sự được truy tặng liệt sĩ. Vào ngày vinh dự sau bao năm mong mỏi này, ông được bà Thuận (vợ Vũ Quý) và anh Bắc Sơn (con trai Vũ Quý, hiện nay đang công tác tại Văn phòng Chủ tịch nước) mời đến gia đình dự lễ đón nhận bằng Tổ quốc ghi công của liệt sĩ Vũ Quý. Lúc đó, ông mới nguôi đi nỗi trăn trở, day dứt về người bạn, người cán bộ Việt Minh mẫu mực đã sớm giác ngộ, dẫn dắt ông, chỉ đạo Đội danh dự do ông phụ trách làm nhiệm vụ tiễu trừ Việt gian, tích cực đóng góp cho cách mạng trong những ngày chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Vũ Quý đã không hề biết rằng Tiến quân ca đã được Bác Hồ chọn là Quốc ca của ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam (như Chính phủ lâm thời) tại Quốc dân đại hội Tân Trào cùng với việc chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa toàn quốc ngày 16/8/1945. Đến Quốc hội khóa I năm 1946, Tiến quân ca đã chính thức trở thành Quốc ca của nước Việt Nam cho đến ngày hôm nay.
Một vài tiếc nuối về giai điệu và lời ca…
Với những tiếc nuối về Vũ Quý, không chỉ một lần kể với tôi và trong gia đình, ông còn nói điều này với những bạn bè thường nhật, thân quen, chí cốt lui tới như Nguyễn Tuân, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Thái Bá Vân, Phan Ngọc, Sơn Tùng, Dương Tường… Ông đã tâm tình cả về một vài tiếc nuối nhỏ về giai điệu và lời ca của bài Tiến quân ca. Là con trai thứ hai của ông, khi lớn dần, tôi hay được phục vụ ông tiếp bạn bè hàng ngày, chè, rượu, nước, thuốc và lặt vặt bên ông. Những buổi đó, tôi đã nhập tâm về một vài điều ông tiếc nuối thật nhỏ nhoi này. Giọng ông như trầm hẳn khi nói:
“Tiến quân ca sáng tác xong, ít lâu sau tôi cảm thấy: do muốn mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng, nốt nhạc ngay đầu đã phải ngân dài, điều này có gì đó khiến tôi áy náy. Sau này, tôi đã cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về việc đã sửa lại chỗ này tại dàn kèn cử nhạc lễ của quân đội, ngay vào ngày là Quốc ca chính thức được cử lên trang nghiêm để chào cờ, không chỉ là hát hành khúc nữa. Kỳ lạ thay, Quốc ca kết thúc lại vừa vặn loạt đạn bắn lên với 21 phát đại bác. Về nốt nhạc đầu tiên, ông Đinh Ngọc Liên cho dàn nhạc cử nốt nhạc này không ngân dài nữa, mà vào ngay với nốt nhạc liền sau nó. Tức là, nếu như cũ, lời ca là: Đoàn… quân Việt Minh đi. Chữ Đoàn phải hát kéo dài hơn. Còn khi đã sửa, phải là: Đoàn quân Việt Minh đi. Do đó các bản nhạc in sau này đã sửa hẳn như vậy, đến nay cứ nghe là thấy rất ổn định. Tôi vẫn thầm cảm ơn ông Đinh Ngọc Liên về cái nốt nhạc này."
Ông tiếp tục nói:
“Còn về lời ca, có người bảo tôi là tại sao có đoạn lại viết: Thề phanh thây uống máu quân thù! Tôi lặng người, sau đó trả lời: “Hoàn cảnh lúc đó, nếu không có 2 triệu người chết đói dần mà tôi đã từng chứng kiến khi bắt đầu sáng tác ca khúc này, tôi sẽ không viết như vậy. Tác dụng thiết thực của lời ở đoạn này lịch sử đã ghi nhận. Ngày hòa bình lập lại năm 1954, gia đình tôi đã từ Việt Bắc trở về Hà Nội sinh sống. Sau đó một vài năm, được Quốc hội mời vào Ban sửa lời Tiến quân ca, tôi đã thống nhất để sửa lại là: Vì nhân dân chiến đấu không ngừng!”. Ở đoạn cuối cùng, tôi có sửa là: Núi sông Việt Nam ta vững bền (nguyên lời cũ là: Chí trai là nơi đây ước nguyền hoặc Bắc Sơn cùng Đô Lương, Thái Nguyên). Không biết ai đó chấp bút cuối cùng, đã đổi thành: Nước non Việt Nam ta vững bền!. Với một ca khúc đòi hỏi trang nghiêm, chữ nước non hát lên bị yếu. Chữ núi sông hát khỏe và hùng tráng”.
Tiếp liền ông nói:
“Rồi ở lời 2, đoạn tôi đã sửa là: Cùng chung sức kiến thiết xây đời mới. Ai đó lại sửa cuối cùng là: Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới”.
Ông bỗng chậc lưỡi:
“Chữ kiến thiết hát khỏe và khí thế biết bao nhiêu!”.
Ông kết luận: “Thôi, giờ tôi có tiếc nuối cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đến nay”.
Việt Báo (Theo Tiền Phong)
-----------------------------------------------------------------------------
(1) Nghiêm Bằng (Hội Nhà văn Hà Nội) là con trai của nhạc sĩ Văn Cao
(2) Có lẽ lúc đó, Văn Cao không ngờ rằng chỉ một thời gian ngắn sau, lần đầu tiên vào ngày 17.8.1945, khi diễn ra cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội, bài hát Tiến quân ca được hàng ngàn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước Quảng trường Nhà hát Lớn. Văn Cao đã kể lại những kỷ niệm của buổi hôm đó: “Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất vang lên theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, những tờ bướm in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh. Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa Nhà hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph.D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất”.
Có thể nói, Văn Cao là một người nghệ sĩ đa tài, thử sức trên mọi lĩnh vực: truyện, thơ, tranh vẽ…Nhưng người ta vẫn biết đến nhiều hơn về ông với tư cách là một nhạc sĩ rất mực tài hoa. So với 2 nhạc sĩ Phạm Duy ( có khoảng 1000 ca khúc) và Trịnh Công Sơn (600 ca khúc), Văn Cao sáng tác không nhiều, nhưng những tác phẩm của ông đều được thính giả đón nhận rất say mê nhiệt tình bởi tính lãng mạn và giá trị nghệ thuật sâu sắc trong từng lời ca, điệu nhạc. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm 2 mảng chính: tình ca và hùng ca. Ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa…tố khúc giao hưởng anh Bộ đội cụ Hồ.
Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như các nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết nhạc phẩm trữ tình, mang nặng âm hưởng phương Đông như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thu cô liêu, Trương Chi, Cung đàn xưa, Bến Xuân, Thiên Thai…được đánh giá là “cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam”.
Ông thường sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang… Sau đó là lần lượt các tác phẩm Tiến quân ca, Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc…ra đời. Trong đó Tiến quân ca đã trở thành Quốc ca Việt Nam và Trường ca sông Lô được nhận xét: “ là tác phẩm vĩ đại…chẳng thua bất cứ nhạc phẩm nào của Tây phương…”, là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, Tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là “ cha đẻ” của hùng ca Việt Nam.
--------------------------------------------------------------------
--------------------------------------------------------------------
Mít-tinh ngày 17.8.1945 của công chức Hà Nội, bài hát Tiến quân ca được hàng ngàn người hòa nhịp cất cao tiếng hát trước Quảng trường Nhà hát Lớn. |
Trương Chi
Trả lờiXóa"Bất chợt ông nói gọn mấy từ như nói với chính mình mà cũng vừa đủ cho tôi nghe: “Trương Chi là tôi đấy!”. Rồi ông bật một tiếng cười khan mà tôi nghe thấu lòng cái nỗi cô đơn cùng tận giăng phủ niềm đau ẩn chứa trong sự im lặng, "
Xóa(Ca sĩ Ánh Tuyết.- http://tuoitre.vn/tin/van-hoa-giai-tri/am-nhac/20130707/nhac-si-van-cao-truong-chi-la-toi-day/557851.html ).
"Trương Chi" này xấu thật! Mặt trông giống Einstein.
Trả lờiXóaĐó là cái "xấu" ở ông mà "Mỵ Nương" đã không dung nổi?!
Xóa