Trang

Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

Tuyết

HG: Mình thấy nhiều điểm tương đồng về nghệ thuật giữa  Paustovsky và Levitan. Bởi thế, làm một phép thử nho nhỏ gắn kết tác phẩm của họ: Toàn bộ chín bức tranh mình sử dụng minh họa cho truyện ngắn này đều là tranh của họa sĩ I. Levitan.

                                                                                                            Truyện ngắn
                                                                                                                                        K.Paustovxky

        Tachiana Petrovna dọn đến nhà cụ Potapov được một tháng thì cụ mất. Nàng ở lại một mình với đứa con gái nhỏ là Varia và người vú già.
        Ngôi nhà nhỏ, chỉ có ba gian, ở trên một ngọn đồi trông xuống con sông phía Bắc ngay đầu tỉnh lỵ. Sau nhà, bên kia khu vườn đã trụi lá là một rừng bạch dương phơi màu trắng bạc. Ở đó, từ sáng đến tối, lũ quạ kêu quàng quạc, bay thành từng đám mây đen trên những ngọn cây trần trụi báo hiệu trời xấu.
        Từ khi rời Moskva, Tachiana mãi vẫn không sao quen được cái tỉnh lỵ đìu hiu với những ngôi nhà nhỏ bé, những cánh cửa hàng rào kêu ken két, những buổi tối vắng lặng, nghe rõ cả tiếng ngọn đèn dầu hỏa nổ lép bép. 

"Mình ngốc quá! - Nàng nghĩ - Không dưng đi bỏ Moskva, nhà hát và bè bạn! Đáng lẽ phải đưa Varia đến với bà vú ở Puskino, nơi đó chưa bị máy bay bắn phá lần nào, còn mình thì cứ việc ở lại Moskva. Trời, mình thật ngốc!".
       Nhưng không thể trở lại Moskva nữa rồi, Tachiana quyết định biểu diễn trong các trạm quân y lưu động- trong thị trấn cũng đã có vài trạm - và nàng cảm thấy trong lòng cũng khuây khỏa đôi chút. Nàng còn thấy thích cái tỉnh lỵ ấy nữa là khác, nhất là khi đông về và tuyết xuống phủ đầy. Ngày lại ngày, êm dịu và xám ngắt. Sông mãi chưa đóng băng, mặt nước màu xanh lá cây bốc khói.


         Tachiana quen dần với tỉnh lỵ và cả với ngôi nhà không phải của mình. Nàng đã quen chiếc dương cầm lạc giọng, những tấm ảnh úa vàng trên treo trên tường chụp những thiết giáp hạm cổ lỗ bảo vệ bờ biển. Trước kia, cụ Potapov làm thợ máy tàu biển. Trên cái bàn giấy phủ dạ xanh của cụ có đặt mô hình tuần dương hạm "Gromoboi", trên tàu đó cụ đã làm việc. Varia bị cấm không được sờ vào mô hình ấy. Và nói chung, con bé bị cấm không được sờ vào bất cứ vật gì.
        Tachiana biết cụ Potapov có con trai đang phục vụ ở trong hạm đội Hắc Hải. Trên bàn, bên cạnh mô hình tuần dương hạm, có bức ảnh của anh. Đôi lúc, Tachiana cầm bức ảnh lên xem, mê mải ngắm nghía rồi nhíu đôi lông mày thanh thanh lại, nghĩ ngợi. Nàng cứ có cảm giác là đã gặp anh ở một nơi nào đó, nhưng đã lâu lắm rồi, trước cả cuộc hôn nhân không toại nguyện của nàng. Nhưng ở đâu? Và khi nào nhỉ?
       Anh lính thuỷ nhìn nàng bằng đôi mắt bình thản hơi có vẻ chế nhạo, như muốn hỏi: "Thế nào chị? Chẳng lẽ chị vẫn chưa nhớ ra là chúng ta đã gặp nhau ở đâu hay sao?"
         - Không, tôi không nhớ
         Nàng trả lời khe khẽ.
         - Mẹ ơi, mẹ nói chuyện với ai thế?
          Varia từ phòng bên hỏi to.
         - Mẹ nói với cái dương cầm con ạ!
          Tachiana cười, trả lời con.
        Vào giữa mùa đông bắt đầu có những lá thư gửi cho cụ Potapov, những lá thư do cùng một bàn tay viết Tachiana xếp những lá thư ấy lại trên bàn.
       Một lần, đang đêm nàng chợt thức giấc. Ánh tuyết mờ mờ chiếu vào cửa kính. Con mèo xám Arkhiv của cụ Potapov để lại đang ngáy khò khò trên đi văng.
        Tachiana khoác áo choàng mỏng vào phòng làm việc của cụ Potapov và đứng môt lát bên cửa sổ. Một con chim lặng lẽ bay vụt ra khỏi cây làm tuyết đổ xuống. Tuyết bay như một thứ bụi trắng phủ một lớp mỏng trên mặt kính.
        Tachiana thắp ngọn nến trên bàn, ngồi xuống ghế bành và đăm đắm nhìn ngọn nến. Ngọn nến cũng chả buồn lay động. Sau đó nàng thận trọng lấy trong chồng thư ra ra một bức, bóc phong bì, nhìn chung quanh và bắt đầu đọc:

http://t2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQNe9Vw6Pc_b1cfjhOqbyOmrJgyDsSt-2EXd8ElU3d87WsytRLc" Cha yêu quý, thế là con đã nằm bệnh viện được một tháng, - nàng đọc - Vết thương không nặng lắm. Đại thể là nó đang lên da non. Xin cha đừng lo lắng và chớ hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Con van cha đấy!"
" Con luôn nhớ đến cha, - Tachiana đọc tiếp - đến ngôi nhà của cha con ta, đến tỉnh lỵ của chúng ta. Tất cả những cái đó xa xăm quá, tưởng như ở đâu mãi chân trời. Con nhắm mắt lại và thấy con mở cửa hàng rào, bước vào vườn. Mùa đông, tuyết xuống, nhưng con đường nhỏ dẫn tới phong đình bên dốc đã được quét dọn sạch sẽ, và băng bụi phủ đầy những khóm tử đinh hương. Lò sưởi trong phòng kêu tí tách. Khói bạch dương thoang thoảng. Cây dương cầm cuối cùng đã được lên dây lại và cha đã cắm những cây nến vàng hình xoắn ốc con mua từ Leningrad vào những chân đèn. Và vẫn những bản nhạc ấy trên chiếc đàn? Bản tự khúc của vở nhạc kịch "Con đầm Pích" và tình ca "Trên bờ cõi Tổ quốc xa xôi." Không biết quả chuông treo ở cửa có kêu không? Thế là con vẫn chưa kịp chữa. Chả lẽ rồi con sẽ lại được gặp tất cả những cái đó? Chả lẽ rồi con lại được lấy nước giếng trong bình ra mà tắm sạch bụi đường xa? Cha còn nhớ không? Ôi, nếu cha biết được rằng từ chốn xa xôi này con yêu mến tất cả những cái đó biết chừng nào? Cha đừng ngạc nhiên, nhưng con nói với cha một cách thật nghiêm túc rằng con nhớ đến những cái đó trong những phút ác liệt nhất của trận đánh. Con biết rằng con đang bảo vệ không riêng gì bờ cõi đất nước mà cả cái góc nhỏ bé và thân yêu ấy trong lòng con: tức là cả cha, cả khu vườn nhà ta, cả những chú bé tóc bù xù trong làng ta, cả những khu rừng bạch dương bên kia sông và cả con mèo Arkhiv nữa. Xin cha đừng cười và đừng lắc đầu cha nhé! Có thể khi ra viện con sẽ được về nhà ít lâu. Điều đó chưa chắc lắm. Tốt hơn là cha đừng đợi".            


thang__ba_cua_le_vi_tan_500      Tachiana ngồi rất lâu bên bàn, mắt mở to nhìn qua cửa sổ, nơi bình minh bắt đầu hé lên trong màu xanh dày đặc và nghĩ rằng sắp tới đây thôi, ngày một ngày hai, có thể sẽ có một người nàng không quen biết từ mặt trận trở về ngôi nhà này và người đó sẽ đau khổ khi phải gặp những người xa lạ ở đây và phải trông thấy mọi vật hoàn toàn không giống như ý người đó muốn.
      
       Sáng hôm sau, Tachiana sai Varia lấy xẻng ra dọn con đường dẫn tới phong đình trên bờ dốc. Cái lầu  đã hoàn toàn cũ nát. Những cột gỗ mốc meo, rêu phủ đầy. Tachiana tự tay chữa lấy quả chuông con treo trên cửa. Trên chuông có một hàng chữ đúc đến buồn cười "Ta treo trên cửa - hãy giật cho vui!" Tachiana đụng vào chuông, nó kêu lên lanh lảnh. Con mèo Arkhiv khó chịu, ve vẩy đôi tai, rồi bực dọc đi ra khỏi nhà: có lẽ nó cho tiếng chuông vui vẻ kia là càn rỡ.
        Trưa hôm đó, Tachiana, má ửng hồng, cười nói ầm ĩ, mắt quầng thâm vì xúc động, từ ngoài phố về dắt theo một ông lão lên dây đàn, một người Tiệp đã Nga hoá. Ông lão làm nghề chữa đèn cồn, đèn dầu hỏa, búp bê, acoocdeon và lên dây đàn dương cầm. Lão thợ sửa đàn có cái họ nghe rất buồn cười: " Nevidan" (của hiếm). Sau khi lên dây đàn, ông già nói rằng chiếc đàn cũ nhưng rất tốt. Không cần ông nói Tachiana cũng biết rõ điều đó.
       Khi ông lão về rồi, Tachiana cẩn thận lục khắp các ngăn kéo bàn và tìm thấy một gói to những cây nến hình xoắn ốc. Nàng cắm vào các chân nến đặt lên chiếc dương cầm. Tối đến, nàng thắp nến lên, ngồi trước dương cầm, và tiếng nhạc tràn ngập cả ngôi nhà.
      Khi Tachianan ngừng chơi và tắt nến đi thì một làn khói thơm tỏa ra khắp các phòng như quanh cây thông ngày lễ đầu năm.
       Varia không chịu được nữa.
       - Sao mẹ lại đụng vào đồ vật của người khác?
       Nó hỏi Tachiana
     - Mẹ cấm con, còn mẹ thì lại đụng vào đủ mọi thứ? Nào chuông, nào nến, nào đàn. Mẹ lại còn đặt những bản nhạc của người ta lên trên dương cầm nữa.
       - Vì mẹ là người lớn.
       Tachiana trả lời.
       Varia chau mày, ngờ vực nhìn mẹ. Lúc này Tachiana không giống người lớn một chút nào. Mặt nàng tươi hẳn lên và nom nàng giống cô gái tóc vàng đã đánh rơi chiếc hài pha lê trong hoàng cung nhiều hơn. Chính Tachiana đã kể cho Varia nghe chuyện cô gái ấy.


***
           
       Ngồi trên tàu hoả, trung uý Nicolai Potapov đã tính rằng anh chỉ có thể ở với cha nhiều lắm là hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Hạn nghỉ phép thì ngắn mà cuộc hành trình đã chiếm gần hết thời gian.
        Tàu hoả tới thành phố vào ban ngày. Vừa bước chân xuống ga, trung uý được ông lão trưởng ga là người quen cho biết cha anh mất đã một tháng và hiện giờ một nữ ca sĩ trẻ cùng đứa con gái đang ở nhà anh.
         - Chị ta người tản cư.
          Ông trưởng ga nói.
        Nicôlai im lặng nhìn ra ngoài cửa kính, nơi những hành khách mặc áo bông, đi ủng dạ, tay cầm ấm nước, đang chạy. Anh thấy chóng mặt.
         - Vâng - trưởng ga nói - Cụ nhà là người thật tốt bụng. Thế mà cụ chết đi mà không kịp gặp con trai.
         - Bao giờ lại có tàu ra, thưa bác?
         Nicôlai hỏi.
         - Năm giờ sáng mai - Ông lão nói, rồi im lặng một lát và nói tiếp - Anh lại đàng tôi đi. Bà lão nhà tôi sẽ pha trà, dọn bữa tối cho anh. Anh về nhà bây giờ cũng vô ích.
         - Cám ơn bác.
          Nicôlai trả lời và bước ra.
         Ông trưởng ga nhìn theo, lắc đầu.
  

       Nicôlai đi qua tỉnh lỵ về bờ sông. Phía trên là một bầu trời xanh xám. Tuyết lơ thơ, bay chênh chếch giữa trời và đất. Mấy con quạ bước đi bước lại trên con đường có những đống phân ủ. Trời sẩm tối. Gió thổi từ bên kia bờ sông, từ những cánh rừng, làm anh chảy nước mắt.
         - Làm sao được! - Nicôlai nói! - Ta về chậm quá! Và giờ đây cái tỉnh lỵ này, cả con sông và ngôi nhà - giờ đây  đối với ta gần như hoàn toàn xa lạ!

      Anh ngoảnh nhìn về phía sườn dốc bên kia thành phố. Ở đó, khu vườn nằm trong băng bụi và ngôi nhà ánh lên một màu đen. Khói bay ra từ ống khói của ngôi nhà. Gió đưa khói bay về cánh rừng bạch dương.
        Nicôlai thong thả bước về phía nhà mình. Anh định không vào nhà mà chỉ đi ngang thôi, cũng có thể rẽ vào vườn đứng một lát trong cái lầu nghỉ chân cũ kĩ. Anh không sao chịu nổi khi nghĩ rằng trong ngôi nhà của cha anh giờ đây đã có những người hoàn toàn xa lạ, vô tình đến ở. Tốt hơn là chẳng nhìn thấy gì hết để khỏi phải đau lòng, cứ đi đi và lãng quên dĩ vãng.
" Ồ - Nicôlai nghĩ bụng - Con người mỗi ngày một trưởng thành, mỗi ngày nhìn sự vật chung quanh một cách khắc khổ hơn."    

        Nicôlai về đến nhà khi trời tối. Anh nhẹ nhàng mở cửa vào vườn, nhưng nó vẫn kêu ken két. Mảnh vườn như giật mình. Tuyết đọng trên cành rơi xào xạc. Anh nhìn quanh. Trên con đường nhỏ dẫn tới phong đình, tuyết đã được dọn sạch sẽ. Nicôlai vào trong lầu, đặt hai bàn tay lên cái lan can cũ kĩ. Đằng xa, bên kia rừng, bầu trời hồng lên mờ nhạt: có lẽ trăng đã nhô ra sau những đám mây. Nicôlai cất mũ, lấy tay vuốt tóc. Chung quanh anh yên lặng, chỉ ở dưới kia, dưới chân đồi, mấy người đàn bà xách những chiếc xô rỗng kêu loảng xoảng đi lấy nước ở các lỗ băng.
        Anh chống cùi tay trên lan can, nói khẽ:
         - Có thể nào lại như thế?

       Có ai đó nhè nhẹ chạm vào vai anh. Nicôlai ngoảnh lại. Đằng sau anh là một thiếu phụ trẻ, có khuôn mặt xanh xao và nghiêm trang, đầu trùm khăn len. Thiếu phụ nhìn anh bằng đôi mắt sâu thẳm và chăm chú. Trên mi mắt và má nàng những bông tuyết tan dần. Có lẽ đó là tuyết trên cành rơi xuống.
         -Anh đội mũ vào kẻo cảm lạnh đấy! - Thiếu phụ nói khẽ - Mời anh vào nhà. Không nên đứng ở đây.
        Nicôlai im lặng. Thiếu phụ nắm lấy tay áo của anh và dẫn anh theo những con đường nhỏ đã được dọn sạch. Nicôlai dừng lại ở bên thềm. Xúc động làm anh nghẹn ở cổ họng, không sao thở được. Thiếu phụ vẫn nói khe khẽ:

         - Không sao, xin anh đừng ngại vì chuyện ở đây có tôi . Cảm giác đó sẽ qua ngay thôi.
       Nàng giậm chân để rũ tuyết bám vào giày. Tức khắc quả chuông ở phòng mắc áo reo lên lanh lảnh đáp lại. Nicôlai thở dài thực mạnh, lấy hơi.

     Anh bước vào nhà, vẻ bối rối, lẩm bẩm điều gì. Ở phòng ngoài, mới cởi áo choàng anh đã ngửi thấy mùi khói bạch dương thoang thoảng và nhìn thấy con mèo Arkhiv. Nó đang ngồi trên đi văng, ngáp dài. Một cô bé tóc bím đứng bên đi văng và nhìn anh bằng cặp mắt sung sướng, nhưng không nhìn mặt anh mà nhìn mấy viền vàng trên tay áo anh.
       -Vào đây, anh! - Tachiana nói và dẫn anh vào bếp.
       Trong bếp, anh thấy có bình giếng nước lạnh và chiếc khăn tay gai quen thuộc thêu hình những chiếc lá sồi đã được treo sẵn ở đấy.
        Tachiana trở ra. Đứa con gái mang xà phòng cho Nicôlai và nhìn anh cởi áo, rửa mặt. Nỗi bối rối trong lòng anh vẫn chưa tan.
          - Mẹ cháu là ai vậy?
          Anh hỏi con bé và đỏ ửng mặt. Anh hỏi câu đó chỉ để mà hỏi.
         - Mẹ cháu tưởng mẹ cháu là người lớn. - Con bé thì thầm với một vẻ bí mật.- Nhưng mẹ cháu chẳng phải là người lớn tẹo nào. Mẹ cháu chỉ là một cô bé nhóc còn xoàng hơn cả cháu nữa kia.
          - Tại sao vậy? - Anh hỏi
           Nhưng con bé không trả lời, nó nhoẻn miệng cười và chạy ra ngoài. 


          Suốt buổi tối anh không sao xua đuổi được cái cảm giác kỳ lạ là mình đang ở trong một giấc mộng nhẹ nhàng nhưng rất vững chắc. Mọi vật trong nhà xếp đặt đúng theo ý anh muốn. Vẫn những bản nhạc ấy trên đàn dương cầm, vẫn những cây nến hình xoắn ốc đang cháy, nổ tí tách và chiếu sáng phòng làm việc của cha anh. Cả những bức thư anh gửi từ bệnh viện về cũng nằm trên bàn, dưới chiếc địa bàn cũ mà ngày trước ông cụ vẫn thường dùng chặn lên trên những bức thư.
         Uống trà xong, Tachiana dẫn Nicôlai ra thăm mộ cha anh ở bên kia rừng . Mặt trăng mờ mờ đã lên cao. Những cây bạch dương lấp loáng một cách yếu ớt trong ánh trăng, ném những bóng nhẹ xuống tuyết.
          Đêm đã khuya, Tachiana ngồi trước dương cầm, nhẹ nhàng lựa phím đàn, rồi ngoảnh lại nhìn Nicôlai và nói:
         - Tôi cứ có cảm giác là tôi đã gặp anh ở đâu rồi.
         - Vâng, cũng có lẽ - anh đáp.
        Nicôlai nhìn thiếu phụ. ánh nến ở bên cạnh soi sáng nửa khuôn mặt nàng. Anh đứng dậy đi đi lại lại trong phòng rồi dừng lại. Anh nói giọng trầm trầm:

         - Không, tôi không sao nhớ ra được!
         Tachiana ngoảnh lại, sợ sệt nhìn Nicôlai nhưng không nói gì hết.
         Nàng đã sửa soạn chỗ ngủ cho Nicôlai trên chiếc đi văng trong phòng làm việc, nhưng anh không sao chợp mắt được. Mỗi phút trong ngôi nhà này đối với anh thực sự quý báu và anh không muốn bỏ mất phút nào. Anh nằm, chăm chú nghe bước chân rón rén của con mèo Arkhiv, tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng thì thào của Tachiana với người vú già sau cánh cửa đóng. Rồi những giọng nói im bặt, người vú đã đi, nhưng vệt sáng ở dưới cánh cửa vẫn không tắt. Anh nghe thấy tiếng lật giở các trang giấy loạt soạt: chắc Tachiana còn đọc sách. Anh đoán nàng thức cốt để gọi anh dậy cho kịp tàu. Anh muốn nói với nàng rằng anh cũng không ngủ, nhưng anh không dám gọi.
        Bốn giờ sáng, Tachiana khe khẽ mở cửa và gọi Nicôlai. Anh cựa mình.
         - Anh dậy đi thôi, đến giờ rồi! - Nàng nói - Tôi rất tiếc phải đánh thức anh.
        Tachiana tiễn anh ra ga. Hai người đi qua tỉnh lỵ còn đang ngủ im lìm. Sau hồi chuông thứ hai họ từ giã nhau. Tachiana đưa cả hai tay cho Nicôlai và nói:
         - Anh nhớ viết thư nhé! Giờ đây chúng ta đã là những người thân. Phải không?
        Nicôlai không trả lời, anh chỉ gật đầu.
        Mấy hôm sau, Tachiana nhận được một bức thư của Nicôlai viết ở dọc đường:

" Tôi đã nhớ ra chúng ta gặp nhau ở đâu - anh viết -nhưng tôi không muốn nói với em khi còn ở nhà. Em còn nhớ Krưm năm hăm bảy không? Mùa thu. Những cây tiêu huyền cổ thụ ở công viên Livadia. Trời u ám, biển nhợt nhạt. Tôi đi theo con đường nhỏ tới Oreanđa. Trên chiếc ghế dài bên đường có một thiếu nữ ngồi. Cô ta chừng mười sáu tuổi. Trông thấy tôi, cô ta đứng dậy và đi về phía tôi. Khi chúng tôi đi ngang nhau, tôi liếc nhìn cô. Cô ta đi qua tôi rất nhanh, nhẹ nhàng, tay cầm một cuốn sách mở rộng. Tôi dừng lại, nhìn theo cô ta rất lâu. Thiếu nữ đó là em. Tôi không thể nhầm được. Tôi nhìn theo em và cảm thấy rằng người con gái vừa đi qua bên cạnh tôi, người có thể làm tan vỡ cả đời tôi mà cũng có thể đem lại hạnh phúc cho tôi. Tôi hiểu rằng mình có thể yêu người con gái ấy đến hy sinh cả thân mình. Lúc đó tôi đã biết rằng phải tìm em cho bằng được, dù cho có phải trả bất cứ giá nào. Tôi nghĩ như vậy, nhưng vẫn cứ đứng lặng. Vì sao - tôi cũng chẳng hiểu. Từ ngày ấy tôi yêu Krưm và con đường nhỏ, nơi tôi đã gặp em trong giây lát và như mất em vĩnh viễn. Nhưng cuộc đời đã thương tôi và tôi lại được gặp em. Nếu mọi việc đều ổn thoả và em cần đến cuộc đời tôi, thì tất nhiên nó sẽ là của em. À, tôi đã thấy bức thư của tôi bị bóc ra để trên bàn cha. Tôi đã hiểu tất cả và tôi chỉ biết từ nơi xa xôi này gửi lời cám ơn em."

        Tachiana đặt lá thư xuống, đôi mắt mơ màng nhìn qua cửa sổ ra mảnh vườn tuyết phủ:
         - Trời, mình có ở Krưm bao giờ đâu? Chưa bao giờ! Nhưng lúc này cái đó có gì là quan trọng? Và để cho anh ấy tuyệt vọng làm gì? Và cả mình nữa!
        Nàng cười, đưa tay lên che mắt. Ngoài cửa sổ, hoàng hôn mờ mờ vẫn còn cháy đỏ, mãi không sao tắt được.
1943.
(Kim Ân (**)- dịch)

http://www.intofineart.com/upload1/file-admin/images/new12/Levitan,%20Isaak-884348.jpg


-----------------------------------------------------------------------

HG: Mình yêu mến Paustovxky từ khi... chưa biết đọc thứ nào ông viết, chỉ biết tên của ông qua một đoạn văn mà mẹ hay ngân nga:
"Chỉ có trong tưởng tượng, màu sắc mới không bao giờ phai nhạt mà thôi...
Chỉ có trong tưởng tượng, tuổi trẻ mới bất tận và tình yêu mới không tắt bao giờ.
Chỉ có trong tưởng tượng, làn gió nhẹ mới không ngừng thổi tới những miền đầy hoa đua nở, và vầng trăng lưỡi liềm mới lấp lánh suốt ngày đêm trên bầu trời.
Chỉ có trong tưởng tượng, ta mới có thể cười với Puskin, nắm bàn tay khô cằn của Dickenx, và gặp lại những bông hoa biếc xanh của nàng Ophelia..."

Hồi đó mẹ bảo rằng Paustovxky viết như vậy... Mình chưa tự đọc thấy những dòng văn ấy bao giờ. Gần đây, mình cũng đã thử tìm trên mạng mấy lần cốt kiểm tra lại cho đúng tác giả mà chưa tìm được... Thôi không tìm kiếm nữa, bởi dẫu ngọn lửa nhen nhóm kỳ diệu đó là đúng từ ông hay không, thì tình cảm của mình với thứ văn chương ấm áp, nhân hậu, trong lành, mang đậm chất thơ của ông vĩnh viễn không bao giờ tắt. Tình cảm yêu mến đó không phải chỉ có trong tưởng tượng, giống như nỗi đau xót này hoàn toàn là hiện thực: "Ta đã lớn.Và Pautốpxki đã chết." (*)

---------------------------------------------------

(*) Lời thơ Bằng Việt
(**) Kim Ân là bút danh của nhà văn Vũ Thư Hiên- tác giả cuốn hồi kí Đêm giữa ban ngày. Hiện nay, ông đang tỵ nạn tại Pháp.

Isaac Ilyich Levitan (1860-1900). Họa sĩ V.A.Serov 1893

 
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgkql4LtBQ43S1wi-YfjlX1fmE9csFr6VBRoGXc-cnpGB1qiR7HRTdJeEFNR6XVMYuCXagybKTThUXuIC3CS-icubEiYHPDJR3w9-fvB_V_UDPwmhSpSTVvMEP0kp31cL80tEtYbY7_a_TD/s1600/Pauxt%25C3%25B4pxki.jpg
Konstantin Georgiyevich Paustovsky (1892- 1968)

6 nhận xét:

  1. Hạnh phúc vô biên: http://songdep.xitrum.net/nghethuatsong/3.html

    Trả lờiXóa
  2. Cảm ơn bạn! Nhớ truyện ngắn O.Henry "Chiếc lá cuối cùng"...
    Câu chuyện thật xúc động, và không chỉ cho thấy sẽ có "hạnh phúc vô biên khi mang lại hạnh phúc cho người khác bất chấp hoàn cảnh của riêng mình", mà còn làm HG nghĩ rằng chúng ta có thể và nên đôi khi tự cho phép mình xa rời hiện thực, và hãy mơ mộng đôi chút... (có "ngược đời" không nhỉ, khi mà người ta hoàn toàn có lý khi thường nhắc nhau "nhìn thẳng vào thực tế")... Cuộc sống phải chăng sẽ dễ chịu hơn nếu ta không phải lúc nào cũng chỉ biết chăm chăm nhìn vào hiện thực, nhất là trước những hiện thực phũ phàng, không có cách nào thay đổi được...

    Trả lờiXóa
  3. Một so sánh của HG thật thú vị.
    Tôi yêu tranh Lêvitan như đã từng yêu thơ Exênin, yêu văn Pauxtốpxki… Đó là ba danh nhân nước Nga cho ta sự thâm trầm, nhỏ nhẹ và thăm thẳm mênh mang...

    Khi mình bắt đầu vào học cấp ba, lớp "toán đặc biệt" của tỉnh, thầy dạy văn lúc ấy rất giỏi. Qua thầy, mình biết đến Pautopxki và cũng từ đó mình dần đọc hết các tác phẩm của nhà văn. Ngay cả bây giờ trong tâm thức, bao giờ những câu chuyện trong sáng và nhẹ nhàng ấy cũng như một tiếng thầm trong nắng sớm lao xao ...

    Cái truyện Tuyết này thời lính, bọn mình đọc mà như mơ.
    Cảm ơn Hoa giấy

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn thầy VanPham! :)
      HG rất vui vì thầy đã mạnh khỏe và ghé thăm, lại đồng cảm với những liên tưởng của HG trong bài này. Đọc những lời tự bạch và xem ảnh, HG biết mình kém xa thầy VP về cả tuổi đời và tuổi nghề (HG cùng trong nghề, lại cùng chuyên môn với thầy đấy ạ! ^ ^ ), cũng như sự hiểu biết về những lĩnh vực mà HG quan tâm. Vì thế HG xin phép được gọi "thầy VanPham".

      Xóa
    2. Rất mừng vì chúng ta cùng dạy Toán. Chúc Hoa giấy vui.
      Có một lần, rất vô tình, thấy HG yêu văn học Nga; trong khi bây giờ người ta khoe, yêu văn học Mỹ, biết tiếng Anh, tôi buồn và quý Bạn.

      Chàng Ivan thật thà, tôi yêu khu đầm lầy ma mị và rực rỡ trong Bút ký người đi săn của bá tước Turgenev ghi lại với tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu bản tính Nga,

      Xóa
    3. HG mới đọc một vài truyện ngắn của Turgenev thôi ạ. Tiểu thuyết "Bút ký người đi săn" HG đã nghe tiếng nhưng chưa được đọc. Nghe thầy VP nói vậy, khi nào thảnh thơi HG sẽ tìm đọc xem sao. Văn Turgenev có gì đó cổ kính, giàu chất thơ, ngâm ngợi... không thể đọc vội vàng, xô bồ. Cuộc sống và công việc bây giờ cứ vội vàng sao đó, HG cảm giác nhiều khi muốn "ghìm cương" mà không được... :-(

      Xóa