Trang

Thứ Ba, 11 tháng 8, 2015

Tiếng Thu

Lưu Trọng Lư


Nai mua thuEm không nghe mùa thu 
Dưới trăng mờ thổn thức? 


Em không nghe rạo rực 

Hình ảnh kẻ chinh phu 
Trong lòng người cô phụ? 


Em không nghe rừng thu 

Lá thu kêu xào xạc 
Con nai vàng ngơ ngác 
Đạp trên lá vàng khô?









----------------------------------------------------------------------------------------------

Lưu Trọng Lư với bài thơ Tiếng Thu

Trần Đăng Khoa
   Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: "Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu, Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy".
   Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh. Và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bỗm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn. Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: "Cả đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết".
   Quả đúng vậy. Và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ

Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạo trên lá vàng khô... 


   Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ "đầu Ngô mình Sở". Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về. Tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tý nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:

Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ 


   Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng. Người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chữ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến 3 câu điệp "Em không nghe":

Em không nghe mùa thu
...
Em không nghe rạo rực
...
Em không nghe rừng thu... 


   Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt. Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển. Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. Ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ. Còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng com mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn việc cớ rằng: "Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm". Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: "Rừng thu từng biếc chen hồng". Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác "đạp trên lá vàng khô"! Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: "Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng, Lư không nghe thấy gì đâu! Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mình gò ngựa ở những chốn xa xăm nào".

   Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non, Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...

Trần Đăng Khoa
Nguồn: Thơ Việt Nam Online 
-------------------------------------------------------------------------

NGUYỄN NAM TRÂN: TIẾNG THU

Riêng tặng anh Đinh Văn Thạnh, người bạn chưa quen
   Một người thân ở Paris, gần đây có viết Mail hỏi tôi xem bài Tiếng Thu (1939) nổi tiếng của Lưu Trọng Lư (1912-1991) có lấy cảm hứng từ một bài thơ xưa của Nhật không? Anh ấy đã đọc ở tờ báo Kỷ Nguyên Mới ở Mỹ cho biết nhà văn Nguyễn Vỹ có lần hỏi bạn ông là Lưu Trọng Lư về điều đó. Lưu Trọng Lư trả lời không là không nhưng Nguyễn Vỹ vẫn chưa hết mối ngờ và đem theo nó vào tận Sài Gòn .
   Thực tình nếu trí nhớ chưa phản bội tôi thì chính tôi cũng đã có cơ hội đọc điều này trong mục Mình Ơi của báo Phổ Thông do cô Diệu Huyền (một biệt hiệu của Nguyễn Vỹ) phụ trách. Báo Phổ Thông thời đó có vài cựu sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản đóng góp khá thường xuyên và được quần chúng, trong số đó có tôi, khá yêu chuộng và lòng mến mộ nước Nhật của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Giai thoại Tiếng Thu được kể ra qua cuộc đối thoại giữa Ông Tú và Bà Tú. Ông bà Tú không phải là những nhân vật hư cấu, có chăng là ...cô hàng bán vịt lộn đôi khi xuất hiện trong đó. Bà Tú là nhân vật có thực ngoài đời, em gái ông Vỹ. Ông Trần Tú, chồng bà, gốc ngoài Quảng như ông Vỹ, là một người bạn của cha tôi hồi còn ở Đơn Dương gần Đà Lạt. Một người con của hai ông bà, chị Kim Thoa, là bạn học với tôi năm lớp nhì tiểu học. Theo nội dung của bài báo trên Phổ Thông thì Lưu Trọng Lư có thể đã mượn ý của một bài thơ cổ của người Nhật nhưng qua một bản dịch tiếng Pháp vì ông Lư không biết tiếng Nhật.
  Tôi bèn suy ra thơ cổ của Nhật Bản thì chỉ có tanka và tập thơ tanka căn bản phải là Kokin Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập). Nhân một ngày thứ bảy rỗi việc, tôi mới ra quán sách trong supermarket ở Tôkyô đọc cọp bản của nhà Chuô Kôron và tình cờ có thêm một số ít tin tức về bài tanka liên quan xa gần đến Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.
   Trước hết phải nói là những thông tin của Nguyễn Vỹ rất chính xác vì ông có chua âm Nhật của bài thơ bên cạnh bài báo xuất bản ở Mỹ mà người thân của tôi ở Paris đã đọc.
Nguyên tác :
Okuyama ni (Trong núi sâu) (5)
Momiji fumiwake (Đạp lên lá phong đỏ rẽ lối đi) (7)
Naku shika no (Của nai kêu) (5)
Koe kiku toki zo (Chính là khi nghe tiếng) (7)
Aki ga kanashiki (Mùa thu buồn làm sao) (7)
   Chúng ta đều biết người Nhật thích thể thơ 5 chữ 7 chữ như Việt Nam thích 6, 8. Những bài hát Nhật ăn tiền bây giờ cũng theo thể 5, 7. Đọc thơ Nhật như bài này thì nên đi ngược từ câu cuối thì mới rõ nghĩa.
   Vâng, bài nầy đã tìm thấy trong phần Thu Ca của tập Kokin Waka Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập), một tuyển tập thơ quốc âm Tanka (Đoản Ca) của Nhật. Vào đầu thời Hei-an, văn chương chữ Hán chiếm địa vị độc tôn và thơ quốc âm Waka bị đẩy lùi vào bóng tối. Thế nhưng, Waka không vì thế mà mai một hẳn, nó chỉ trở thành một hình thức thơ để tỏ tình cảm riêng tư, sinh hoạt luyến ái nam nữ hay tình tự dân gian. Tập Kokin Waka Shuu(Cổ Kim Hòa Ca Tập) là tập thơ quốc âm đầu tiên đã được soạn để tiến lên vua theo sắc chiếu, còn được lược xưng là Kokin Shuu (Cổ Kim Tập), do bọn các ông Ki-no-Tsurayuki (Kỷ, Quán Chi), Ki-no-Tomonori (Kỷ, Hữu Trắc), Ôshikôchi-no-Mitsune (Phàm Hà Nội, Cung Hằng), Mibu-no-Tadamine (Nhiệm Sinh, Trung Lĩnh) soạn khoảng năm Engi (Diên Hỷ) thứ 5 (905) theo sắc lệnh của thiên hoàng (thứ 60) Daigô (Đề Hồ, trị vì 897-930). Đây là tập thi tuyển Waka đầu tiên được soạn theo chiếu chỉ và là quy phạm cho những tập soạn theo chiếu chỉ các đời sau.Thi tập nầy gồm 12 quyển, thu thập ước chừng trên 1100 bài thơ, có kèm hai bài tựa (Jo), một viết bằng Kana (tức bài Kanajo) do Ki-no-Tsurayuki và bài kia bằng chữ Hán (Manajo) do Ki-no-Yoshimochi (Kỷ, Thục Vọng) viết. Đặc biệt trong bài tựa viết bằng Kana, không những thuyết về sự hoà điệu giữa cái Tâm và thi Từ mà còn chủ trương về vai trò đối đầu của Waka với thơ chữ Hán, nói lên được ý thức dân tộc của người soạn ra nó.
   Kokin Waka Shuu chia thành nhiều bộ (bộ lập=budate) tùy theo chủ đề: Xuân (thượng, hạ), Hạ, Thu (thượng, hạ), Đông, Hạ (chúc tụng), Ly Biệt, Ki Lữ (lữ hành), Vật Danh, Luyến (Tình Yêu), Ai Thương, Tạp (thượng, hạ), Tạp Thể (thượng, hạ) Đại Ca Sở Ngự Ca.Về thể điệu, phần lớn là những bài ngắn (Tanka), có một ít bài dài (Chôka hay Naga-uta) và thơ đối đáp (Sedôka).
  Như đã nói, bài thơ chúng ta đang bàn đến có chép trong phần chủ đề về mùa thu (Thu Ca). Về tác giả, sách cho biết “không biết là ai” nhưng chua thêm ”Trong tập Hyakunin Isshuu (Bách Nhân Nhất Thủ, tức một tập chọn mỗi người nổi tiếng một bài ) thì bảo tác giả là Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại Phu) một nhân vật truyền thuyết có tên trong 36 nhà thơ thời cổ (Tam Thập Lục Ca Tiên) đã soạn”.
   Hyakunin Isshuu được nhiều người cho là công trình biên soạn của Fujiwara Sadaie (còn đọc là Teika, tức Đằng Nguyên Định Gia) vào khoảng năm 1235 và thơ dựa trên Hyakunin Shuuka (Bách Nhân Tú Ca) tức thơ hay của trăm nhà mà ông đã chọn để viết trên giấy họa để trang trí dinh thự một vương hầu. Hyakunin Isshu (quen gọi tắt là Hyakuninshu) chọn của 100 tác giả mỗi người một bài thơ và lấy những bài đó ở các thi tập soạn theo sắc chiếu, tính từ Kokin-Waka-Shuu (Cổ Kim Hòa Ca Tập) cho đến Shoku-Gosen-Shuu (Tục-Hậu Tuyển Tập). Những bài thơ trong tập sách này đều đặc sắc nên được truyền bá rộng rãi về sau dưới mọi hình thức nghệ thuật. Chẳng hạn vào đầu thời Edo, có trò chơi Utagaruta (Ca Gia Lưu Đa) tức trò chơi “ai nhanh tay” bốc những quân bài ( Uta=thơ  ca; karuta = Carte ) có in câu dưới của bài thơ trong Hyakunin Isshu là thắng cuộc. Người Nhật hầu như ai cũng biết bài (tạm gọi là) Thu Ca này vì nó có trên một trong 100 quân bài của trò chơi đó. Khi giám khảo ngâm câu trên trong yomifuda tức quân bài để đọc thì phải biết mà bốc quân bài có ghi câu dưới trong torifuda tức là quân để bốc. Đây là một trò chơi tao nhã rất phổ biến trong quần chúng vào dịp Tết nhất cho đến tận giờ.
   Sách đã dẫn (Kokin Waka Shuu, bản Chuô Kôron) cho rằng câu đầu và câu thứ hai không xác định nai hay là người đạp trên lá (đỏ chứ không phải vàng vì Momiji chữ Hán viết là Hồng Diệp tức là lá màu đỏ của cây phong vào thu). Có lẽ là cả hai nhưng cái mơ hồ đó làm tăng thi vị. Hơn nữa, nai của ông Lư nên thơ hơn vì không kêu để gọi nai cái (hay gọi đàn) như nai Nhật mà chỉ im lặng, ngơ ngác đạp lá vàng khô.
   Không riêng Lưu Trọng Lư, Huy Cận cũng đã viết:
Nai con gót lẩn trong mù,
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
   Nai và mùa thu là một chủ đề thường thấy trong tập Kokin Waka-Shuu này nhưng bên Tàu thời ấy (Đường) cũng có những bài thi vị dính líu xa gần với nai và núi vắng như Lộc Sài của Vương Duy :
Không sơn bất kiến nhân
Đản văn nhân ngữ hưởng
Phản cảnh nhập thâm lâm
Phục chiếu thanh đài thượng
   Theo người thân tôi ở Paris cho biết thì sau khi nghe Nguyễn Vỹ "kết tội", Lưu Trọng Lư đã giẫy nảy lên "Nhưng bài thơ tao còn có chinh phu, cô phụ kia mà " vv…Người bạn Paris cho biết thêm là một thân nhân của ông Lư bảo rằng ông ta làm bài thơ nói trên sau khi xem một bức sơn mài có cảnh nai ở trong rừng. Ngoài ra, theo nguồn tin thân cận khác, nhà phê bình văn học Đặng Tiến nói ông Lư đã chịu ảnh hưởng Thu Thanh Phú của Âu Dương Tu. Điều này làm tôi tự hỏi phải chăng một bài thơ thu rất hay của một nhà thơ triều Nguyễn là Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của cụ Đinh Nhật Thận, còn có thể là gạch nối giữa Âu Dương Tu và Lưu Trọng Lư chăng? Vẫn người thân của tôi ở Paris lại nhắc đến Chanson d’Automne, một tác phẩm trứ danh của Pháp mà ai cũng nằm lòng từ lúc ngồi trên ghế trường trung học.Thơ viết về mùa thu nhiều lắm. Thế thì, ông Lư sanh sau đẻ muộn này lấy cảm hứng ở đâu để viết Tiếng Thu đây ?
   Khi tôi có dịp may gặp nhà thơ Xuân Diệu ở Paris một vài năm trước khi ông mất và có hỏi : Thế bác viết:
Tuổi học trời xa, Huế cũng đi,
Mấy bài thơ cũ thật tiên tri.
Bạn vàng thuở trước nên ông cả,
Gái nhỏ khi nao thoắt dậy thì.
Có lấy cảm hứng từ hai câu:
Đồng học thiếu niên đa bất tiện
Ngũ Lăng cừu mã tự khinh phì
không ? (vì Xuân Diệu rất sành thơ Đường: con ông đồ Nghệ, đã viết những bài như Nhị Hồ, đã dịch và vác ba lô đi nói chuyện về thơ Đường khắp nơi) thì được ông trả lời "Không. Có thể đó là cái hồn thơ nho nhỏ của "thằng" Xuân Diệu đã gặp được cái hồn thơ vĩ đại của cụ Đỗ Phủ ở chỗ nào đó thôi".
   Cho nên chuyện ông Lưu Trọng Lư có biết bài thơ Nhật kia không thì không quan trọng. Trước hết ông Lư có đủ tài để làm thơ hay như khi ông viết về mùa hạ:
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời,
Lúc người còn sống tôi lên mười.
Mỗi lần nắng mới gieo ngoài nội,
Áo đỏ người đem trước dậu phơi.

Hay mùa đông :
Em chỉ là người em gái thôi,
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.
thì có gì mà chẳng làm được một bài thơ hay về mùa thu, cũng hay như Vần Thơ Sầu Rụng nói về mùa xuân với “những ngày lạnh rớt gió vèo trong cây”.
   Cái quan trọng ở đây là ông Lư đã đẻ ra được cái hình ảnh "con nai vàng ngơ ngác". Nếu ông lấy cảm hứng từ thơ Nhật thì thi nhân Waka nào đó phải còn phải cảm ơn Lưu Trọng Lư nữa, vì dù có mô phỏng cổ nhân, ông đã đưa hồn thơ Nhật Bản đến cho người Việt Nam. Cũng như Nguyễn Khuyến đã đem Thu Hứng của Đỗ Phủ vào thơ Việt khéo đến nổi người ta khó lập ra quan hệ “liên văn bản” giữa:
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái (Nguyễn Khuyến)
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ (Đỗ Phủ)
   Phải tinh ý lắm mới nhận ra. Hơn nữa, ông Lư cũng đã đem vào bài thơ này một chủ đề mùa thu khác như mùa thu của chờ mong thường thấy trong văn học Trung Hoa, Việt Nam và cả Nhật Bản (rạo rực, chinh phu, cô phụ) như ông đã nói rất đúng. Ngoài ra, cái độc đáo của ông là lối đặt câu hỏi (không nghe?), tiếng động mùa thu (thổn thức, xào xạc) như tiếng thu mà Âu Dương Tu, văn nhân đời Tống đã bắt gặp giữa một đêm mất ngủ trong Thu Thanh Phú, hay linh hồn réo rắt của làn gió thu nghe như tiếng vĩ cầm trong Chanson d’Automne của Paul Verlaine (1844-1896):
Les sangots longs
Des violons
De l’automne
Blessent mon coeur
D’une langueur monotone…
    Chưa hết.
   Tôi nghĩ mùa thu đã nhập vào hồn thơ nhân loại. Thi ca toàn cầu hóa trước khi kinh tế bắt đầu vượt biên giới quốc gia. Mới đây, tôi lại thấy người Trung Quốc dịch bài Waka chủ đề Thu Ca nầy sang tiếng Trung và một giáo sư Nhật Bản dịch thơ Lưu Trọng Lư sang tiếng Nhật. Vậy xin chép lại cả hai bài thơ dịch để quý độc giả thưởng thức.
   Bài Waka dịch ra tiếng Trung với nhan đề Thâm Sơn Hồng Diệp, Đàn Khả dịch (Nhật Bản Cổ Thi Nhất Bách Thủ (Riben Gushi Yibai Shou) do nhà Xuất Bản Văn Học Ngoại Quốc, Bắc Kinh in năm 1985. Theo Đàn Khả, dựa trên bài tựa bằng chữ Hán của Kokin Shuu do Ki no Yoshimochi (Kỷ Thục Vọng), bài thơ nầy do Ôtomo no Kuronushi (Đại Hữu Hắc Chủ), thi nhân khoảng tiền bán thời Heian (794-1188) viết theo một bài thơ trước đó của Sarumaru Dayu (Viên Hoàn Đại Phu), như đã nói trên, là một nhân vật chưa chắc đã có thực:
Thâm sơn hồng diệp mãn địa phiêu
Túc đạp hồng diệp lộ điều điều
Văn đạo lộc minh thanh ai khổ
Bi cảm phong hàn thu khí cao 

Núi sâu lá đỏ rụng đầy
Chân khua xác lá dặm dài về đâu
Nai kêu ai oán gieo sầu
Hơi thu lạnh buốt tầng cao ngập lòng
        (Nguyễn Nam Trân dịch)
   Dịch giả giải thích đây là tâm sự của một người đang ở giữa đường đời, như đứng giữa rừng sâu lá đỏ, dưới trời thu lạnh lẽo, tiền lộ mịt mùng, lạc lõng không biết về đâu.Theo lối dịch này, chỉ có người đạp trên lá đỏ và chỉ nghe tiếng nai vọng đến từ xa. Lối dịch thế này không trung thành với nguyên tác cho lắm, nhưng xem ra cũng có một thi vị riêng.
   Ngoài ra, vào một buổi chiều trong thư viện, tôi nhân tò mò đọc vài trang của quyển sách nhan đề Lối Vào Văn Học Đông Nam Á (Tônan-Azia Bungaku no Shôtai, Sei-unsha, Tôkyo, 2001), thấy trong phần thi văn Việt Nam, giáo sư Kawaguchi Ken-ichi đã dịch Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư ra Nhật Ngữ như sau:
Urumu tsuki no shita ni
Kimi wa kikazuya
Susurinaite iru aki wo 

Ura wakitsuma no kokoro ni
Kimi wa kikazuya
Senjô ni yukishi otto no omokage e no
Yamigataki omoi wo

Aki no mori ni
Kimi wa kikazuya
Samayou shika ga kareba wo fumu
Sono kasokeki oto wo

(Aki no oto)
   Tuy bản dịch chưa đạt như ý chúng ta muốn nhưng phải nói ông giáo Nhật này là người có trình độ và phải rõ về cả hai nền văn học vì ít nhất ông là giáo sư Việt Ngữ Đại Học Ngoại Ngữ Đông Kinh, chuyên gia văn học. Thế mà chẳng nghe ông gợi ra một câu hỏi nhỏ về khả năng của nguồn cội Waka bài Tiếng Thu khi ông dịch nó qua tiếng nước ông. Điều đó chứng tỏ Lưu Trọng Lư, nói dại là có chịu ảnh hưởng bài Waka chăng nữa, đã thành công vì “che mắt” được cả giáo sư văn chương kia.
   Để kết luận, tuy phân tích của Nguyễn Vỹ rất cần cho nghiên cứu văn học nhất là văn học đối chiếu nhưng nếu thế, lập luận của ông cần phải có thêm chứng cứ có tính khoa học và khách quan hơn, nhất là khi luận điểm đó đã bị chính tác giả phủ nhận. Riêng ở cương vị một người thưởng thức, tôi lại muốn đồng ý với Xuân Diệu khi họ Ngô viết (lâu ngày quên đích xác thế nào):
Ai đi phân tích một làn hương
Hay bản cầm ca,
Tôi chỉ mơ, tôi chỉ thương, chỉ chuồi theo dòng ảo tưởng
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương. (*)
mà tôi nghĩ thích hợp cho bài Tiếng Thu này.
Tôkyô, 4/2004, một ngày nắng nhưng nhiều gió.
Nguyễn Nam Trân
http://www.erct.com/2-ThoVan/NNT/Tieng_Thu.htm
------------------------------------------------------
(*) Đoạn trích trong bài thơ "Vì Sao" của nhà thơ Xuân Diệu, tình thực như sau:
VÌ SAO 

Bữa trước, giêng hai dưới nắng đào,
Nhìn tôi cô muốn hỏi "vì sao ?"
Khi tôi đến kiếm trên môi đẹp
Một thoáng cười yêu thỏa khát khao

-- Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên,
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền,
Không thể vô tình qua trước cửa,
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên ?

Ai đem phân chất một mùi hương
Hay bản cầm ca! Tôi chỉ thương,
Chỉ lặng chuồi theo dòng cảm xúc,
Như thuyền ngư phủ lạc trong sương.


Làm sao cắt nghĩa được tình yêu !
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
Bằng mây nhẹ nhẹ, gió hiu hiu ...

Cô hãy là nơi mấy khóm dừa
Dầm chân trong nước, đứng say sưa,
Cho tôi là kẻ qua sa mạc
Tạm lánh hè gay; -- thế cũng vừa

Rồi một ngày mai, tôi sẽ đi.
Vì sao, ai nỡ hỏi làm chi !
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá,
Chỉ biết yêu thôi, chẳng hiểu gì.

11 nhận xét:

  1. Tưởng LTL người Bắc, ai dè lại là người Quảng Bình! Bài Tiếng Thu có một phong cách lạ, và không may nó lại "giống" với một bài thơ Nhật về cả nội dung và nghệ thuật!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. "...và không may nó lại "giống" với một bài thơ Nhật về cả nội dung và nghệ thuật!" - CCK đọc kỹ nội dung bài viết của Nguyễn Nam Trân chưa ạ?

      Xóa
  2. trùng ý tưởng, cảm xúc , giai điệu là chuyện cũng bình thường, kể cả vay mượn hay ảnh hưởng từ người khác cũng là chuyện học hỏi tiếp thu trí tuệ của cao nhân , người đi trước mà thôi. mùa Thu dù có mênh mang mơ màng nhưng dùng ngôn từ,để diễn tả chắc cũng có giới hạn nhất định tỉ như từ 24 chữ cái gép lại thì cũng sẽ ra một lượng chữ có giới hạn. " Tiếng Thu " quả là một tuyệt tác - đúng là một bài thơ thơ đích thực. nó có ngôn từ của Phương Đông nhưng cái hồn dường như lại chịu ảnh hưởng từ phương Tây có thể là thơ văn Pháp Quốc chăng ? cảm xúc từ bài thơ thì thấy nó chả có mấy liên quan đến bài thơ Nhật đã dẫn ở trên ...nó tình hơn , mơ màng hơn quyến rũ hơn.. đời hơn. còn bài thơ Nhật vẫn mang phong cách thơ Thiền kiểu haicu

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. " tỉ như từ 24 chữ cái gép lại thì cũng sẽ ra một lượng chữ có giới hạn". VN "lấn sân" của HG rồi ạ! Làm HG nổi bệnh nghề nghiệp, ngồi lẩm nhẩm tính xem "lượng chữ" thật sự là bao nhiêu... Bỏ dở rồi VN ơi! Vì tiếng Việt nhiều luật âm vần gớm quá!:)
      HG rất thú vị với bài bình của nhà thơ Trần Đăng Khoa.

      Xóa
  3. Đồng ý với VN. Thưởng thơ không nên nhăm nhăm tìm sự tương đồng với thơ này thơ kia để rồi dễ dàng nghi ngờ hay áp đặt cái gọi là "đạo thơ". Lý luận văn học có tồn tại ý niệm "đọc sáng tạo". Trong đó, từ cảm hứng tác phẩm này có thể sáng tạo thành tác phẩm kia với sự biểu đạt mới, thậm chí có tính sáng tạo cao về hình thức và nội dung...Ví dụ: Hămlét được viết dựa trên một truyện cổ Đan Mạch, Truyện Kiều viết dựa trên 1 tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân (Trung Quốc).v,v, Ở Việt Nam. trước khi có Tiếng thu, mấy ai biết có bài thơ thu nào đó của nước Nhật xa xôi? Chỉ biết rằng, từ thể thơ, điệu thơ, hình ảnh, cảm xúc thơ... trước Thế Lữ, Việt Nam chưa ai như thế cả. Không phải "cóp" của Nhật, hay "nhặt" của Tây mà là của người Việt, hồn Việt, với tất cả những rung động vừa tinh tế, vừa mới mẻ của một đại diện cho lớp những trí thức tiểu tư sản- những người đang tiên phong gánh vác sứ mệnh hội nhập văn hóa Việt với thế giới thời trước cách mạng... Hơi đa ngôn rồi! Bây giờ HG thử xem bài này liệu có hơi hướng của bài thơ nào không nhé:


    Mùa thu nữa lại về
    Lá vàng ươm màu nắng
    Heo may qua ngõ vắng
    Nghe xao xác trong tim

    Có ai đó đang tìm
    Bóng hình ai thuở trước
    Hương ổi thơm níu bước
    Cỏ ngập dày lối hoang

    Còn ai nữa, khuất rồi!
    Ba lăm mùa trút lá
    Lệ ai lăn trên má
    Sương thu lạnh mái đầu.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. HG thích ý " Hămlét được viết dựa trên một truyện cổ Đan Mạch"- Bây giờ em mới biết đấy chị ạ!
      Bài thơ trên, em có nhận ra hơi hướng Nguyễn Đình Thi ở khổ thơ đầu... Còn "hương ổi", "sương thu..." cũng nghe quen, nhưng quả thực tất cả đó là những hình dung đẹp về mùa thu mà! sao lại phải tránh?! Chủ yếu bản lĩnh sử dụng như thế nào, có đi với cái "tôi" riêng, có sự sáng tạo nào không mà thôi. Cá nhân HG nghĩ bài thơ gọn gàng, sâu lắng và... đủ vững để đứng một mình.

      Xóa
    2. À, HG "bắt được" chi NKP đang khi cảm hứng dạt dào đã viết nhầm tên Lưu Trọng Lư thành Thế Lữ. :)) Buồn cười ghê, vì hình như có nhiều người nhầm như vậy- theo kiểu lẫn hai cái tên chứ không phải là nhầm hai nhà thơ với nhau.

      Xóa
    3. Đúng là nhầm! May mà HG phát hiện ra, không thì lần sau lại thế nữa thì buồn cười quá! Bỗng nhớ câu chuyên về phố Nguyễn Hữu Khoát...

      Xóa
    4. Híc! Có nhất thiết chị phải nhớ câu chuyện đó không thế? Làm HG cười thắt cả ruột! :D

      Xóa
    5. lâu lắm mình mới có đồng minh ... mà hình như lại là sư tỷ của HG..he...he ! chứng tỏ vai vế mình cũng khá

      Xóa
    6. VN nói thế nào, chứ bấy lâu nay HG với VN vẫn là đồng minh đấy chứ ạ! :D
      Vai vế sánh ngang với sư tỷ của HG cơ á??? VN mơ mộng cũng khiếp thật! :P

      Xóa