Trần Đăng Khoa
Ngày Tết, người ta thường đến thăm nhau, chúc tụng nhau với cái bắt tay nồng nhiệt. Đấy là một cử chỉ thân thiện.
Lá ngô lay ở bờ sông
bờ sông vẫn gió,
người không thấy về
xin người hãy trở về quê
một lần cuối... một lần về cuối thôi
về thương lại bến sông trôi
về buồn lại đã một đời tóc xanh
lệ xin giọt cuối để dành
trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
cây cau cũ, giại (**) hiên nhà
còn nghe gió thổi sông xa một lần
con xin ngắn lại đường gần
một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
------------------
(*) Tên hai tập thơ của Trúc Thông
(**) Giại: cái giại, một thứ như bình phong đan bằng tre dựng trước hiên nhà ở những vùng quê Bắc Bộ.
IV. LỜI THỀ CỎ MAY
Tôi cũng đến với bạn đây. Và sau lời chúc bạn một năm mới an khang thịnh vượng, tôi cũng tin cậy trao cho bàn bàn tay thân thiện của tôi. Đó là 5 bài thơ lục bát mà tôi rất đỗi yêu mến này. Nó là 5 ngón tay trên một bàn tay. Ở đây, tôi không làm cái việc lẩn thẩn là đo đếm độ dài ngắn. Tôi chỉ biết đây là 5 ngón tay trên một bàn tay. Bởi vậy mới là 5. Chỉ 5 thôi, không thể 4, 3 hay 6. Ngày Tết, tin cậy và yêu mến nhau, không lẽ tôi lại trao cho bạn một bàn tay dị dạng.
Nhưng tại sao tôi không chọn 5 bài ở các thể thơ khác nhau cho đa dạng, đỡ nhàm tẻ, mà lại cứ phải lục bát? Muốn bảo vệ thể thơ dân tộc này ư? Không! Lục bát chẳng cần tôi bảo vệ, lưu giữ, nó vẫn trường tồn. Còn dân tộc - thì đâu cứ phải lục bát mới dân tộc? Có khi thơ viết theo thể lục bát - một thể thơ thuần túy dân tộc mà vẫn cứ lai căng, chẳng dân tộc tí nào. Nhưng thôi, chuyện đó ta sẽ bàn vào một dịp khác. Tôi chọn lục bát, vì nó thân thuộc, gần gũi với người Việt ta. Nói như nhà thơ Nguyễn Đình Thi, lục bát là hơi thở của người Việt. Nó tự nhiên như hơi thở con người, bởi thế câu thơ mới so le, dài ngắn không đều. Hít vào thì ngắn. Thở ra thì dài. Lục bát là cái nhịp hít vào, thở ra ấy. Chả biết có đúng không? Bởi nghĩ đi thì thế, nghĩ lại thì chả cứ gì người Việt Nam ta, mà người da trắng ở Airơlen, người da đen ở Công-gô, cũng hít vào thì ngắn, thở ra thì dài như mình, nhưng sao họ không có thơ lục bát, âu cũng là cái bí hiểm của thi ca, phải bàn vào lúc khác thôi.
Đây là một thể thơ thông dụng, rất dễ viết, ai cũng có thể viết được, kể cả những người ít học, thậm chí nhiều bà con không biết chữ cũng có thể làm được lục bát. Nhưng viết lục bát cho hay thì lại khó vô cùng. Sau kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, với "lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu", những tưởng lục bát đã khép lại, không ai còn dám bén mảng đến chân cái toà lâu đài châu ngọc mà nội thất toàn gấm thêu ấy nữa. Nhưng đâu có phải. Nó còn mở bao nhiêu cánh cửa, hướng ra cõi vô biên. Lục bát còn thử thách bút lực các thi sĩ. Nói một cách thông thái như nhà văn Nguyễn Tuân: Anh là nhà thơ Việt Nam ư? Vậy anh hãy chiềng ra cho tôi mấy câu lục bát của anh, tôi sẽ nói ngay anh là hạng thi sĩ thế nào?
I. QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ và là một nhà văn hoá lớn. Nói như nhà văn Kim Lân, đó là người mà cái tài thì đàn ông ghen, cái tình thì đàn bà ghen. Một người như thế, sống được, kể cũng vất vả. Nguyễn Đình Thi là người đa tài, ông viết văn, soạn kịch, làm thơ, viết nhạc, làm lý luận. Ở lĩnh vực nào, ông cũng có thành tựu, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của từng thể loại đó. Nhưng cũng bởi sự đa tài này mà rồi chính ông lại tự che khuất ông. Khi cần ngắm ông ở thể loại này, lại thấy ông lấp lánh sáng ở thể loại khác. Cũng vì thế, có nhà phê bình nghiên cứu, chẳng biết xếp ông vào đâu. Ở thể loại nào, ông cũng có đóng góp, nhưng rồi ngay trong chính thể loại ấy người ta cũng thấy ông khiêm nhường đứng khuất sau những bóng dáng khác.
Riêng ở lĩnh vực văn chương, ông là một thái cực của Nguyễn Tuân và Tô Hoài, Trong lúc Nguyên Tuân gò lưng luyện chữ, sáng tạo chữ, muốn đưa ra những con chữ tưởng như hoàn toàn mới, thì Nguyễn Đình Thi lại cố gắng xoá hết những chữ mới đi, để trang văn phẳng lì, không còn cợn lên một chữ nào nữa. Bởi thế ông thường chọn những chữ mòn nhẵn, bạc phếch, mang tính khái niệm, những con chữ mà các thi sĩ khác vứt bỏ, vì sợ không dám dùng, nó như những thửa ruộng bạc màu, hoang hoá, không có dấu hiệu hứa hẹn mùa màng. Nguyễn Đình Thi lại chọn chất liệu ấy để tạo dựng tác phẩm, ông muốn bạn đọc đến với ông một cách tự nhiên thoải mái. Chân cứ thung thăng bước mà không sợ bị vướng vào câu, tay cứ tự do vung mà không ngại bị va phải chữ, để đến nhanh hơn cái đích mà ông muốn gửi gắm, chuyển tải. Mọi cố gắng của Nguyễn Đình Thi là để làm một nhà văn không có chữ. Đây dường như là một chủ định của ông. Một người nước ngoài, học tiếng Việt, chỉ cần biết dăm, bảy trăm tiếng là đã có thể đọc được toàn bộ thơ văn Nguyễn Đình Thi. Cái hay của thơ Nguyễn Đình Thi không nằm ở chữ. Nó là cái hồn phảng phất ở đằng sau những con chữ bạc phếch kia. Bởi thế phân tích thơ ông mà lại mang câu, chữ ra mổ xẻ là một việc làm không phải. Ông bộc lộ tài năng mình rực sáng hơn cả là ở trong thơ ca. Tuy vậy, thành tựu của thơ ông lại không nằm ở thể lục bát:
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê huơng biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tâm tình thuỷ chung
Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm em
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cõng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những bến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan...
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê huơng biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
Việt Nam đất nắng chan hoà
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tâm tình thuỷ chung
Đất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm em
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cõng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những bến đò
Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Đói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan...
II. NHỚ
Bằng Việt đến với chúng ta từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Anh nổi tiếng ngay từ những bài thơ đầu tiên: Bếp lửa, Về hoả tuyến thăm con. Thông thường mỗi nhà thơ trẻ xuất hiện, bao giờ cũng có đằng sau một thi sĩ lớn, một nhà phê bình lớn đi kèm, Xuân Diệu có Thế Lữ, Nguyễn Duy có Hoài Thanh, Thanh Thảo có Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật và tôi có Xuân Diệu. Bằng Việt chẳng có ai. Anh cũng chẳng có giải thưởng văn học nào để đảm bảo. Anh là một ca tương đối đặc biệt. Giữa những năm chống Mỹ, với bầu không khí ồn ào súng đạn, khói lửa, Bằng Việt mang đến cho thơ một khoảng tĩnh mịch, thanh vắng của một tu viện. Chính cái vẻ thanh vắng, tĩnh lặng này đã cho anh một vị trí trong văn đàn. Đọc anh, tôi cứ hình dung một chàng trai sinh viên cố đô, trắng trẻo đến xanh xao, suốt ngày ngồi trong phòng kín, bao quanh là bốn bức tường sách vở Âu, Á.
Cuộc sống phải xuyên qua bốn bức tường sách vở ấy mới đến được với anh. Và rồi, anh đi giữa hè đường bụi bặm hay giữa nghị trường trang nghiêm, vẫn với gương mặt ngơ ngác xanh xao của sách vở. Đây là chân dung Bằng Việt do chính anh tự họa:
Từ ánh nê-ông xanh biếc buổi chiều
Đến hơi mưa trong khóm hoa màu tím
Gáy sách cũ xếp chồng như kỷ niệm
Lá thiếp mừng đám cưới mát trên tay
Thật nhàn tản, đài các và vui vẻ. Thơ Bằng Việt mang cái dáng vẻ nhàn tản, đài các này. Nó là một dạng thơ thính phòng. Bài Nhớ mà bạn đọc dưới đây cũng là một bài thơ như thế, mặc dù, bài thơ này Bằng Việt viết trong những năm bom đạn ác liệt lại viết ngay giữa chiến trường khói lửa nóng bỏng. Thơ cũng có đạn bom, sốt rét, cũng mái lán của lính lợp bằng lá gồi, cũng rừng già với đá núi, những chất liệu bề bộn của đời sống chiến trường, mà rồi vẫn tịch mịch, tĩnh lặng và nhàn tản. Toàn bộ thơ Bằng Việt có lẽ là như vậy. Chả thế mà một thi sĩ trẻ, khi đọc xong tuyển tập Phía nửa mặt trăng chìm chắt lọc trong cả đời thơ của anh, đã xếp anh, cùng với văn chương Đỗ Chu sang phía... Tác phẩm tuổi xanh. Giữ được vẻ thanh xuân của văn chương khi tuổi đã xế bóng ư? Tôi nghĩ đấy đâu phải là một lời chê khéo...
Lá gồi lợp kín ba gian
Rừng sâu, những buổi chiều càng lắng sâu
Uớc gì cơn sốt qua mau
Để ngồi yên được lâu lâu cùng chiều
Cây cao chi đọng nắng nhiều
Em xa chi, nặng lòng yêu thế này
Ngỡ như cách mấy tầm tay
Mà ra thành mấy ngàn ngày đạn bom
Ngược xuôi đá núi đã mòn
Chút phân vân tuổi trăng tròn đã qua
Em như một bóng cửa nhà
Sau gian lao đủ ngỡ là bình yên
Em như đốm lửa ưu phiền
Biết lo toan để nối liền ngày vui
Em như lớp lớp sóng dồi
Đắng cay đọng lại, ngọt bùi theo đi...
Rừng sâu, những buổi chiều càng lắng sâu
Uớc gì cơn sốt qua mau
Để ngồi yên được lâu lâu cùng chiều
Cây cao chi đọng nắng nhiều
Em xa chi, nặng lòng yêu thế này
Ngỡ như cách mấy tầm tay
Mà ra thành mấy ngàn ngày đạn bom
Ngược xuôi đá núi đã mòn
Chút phân vân tuổi trăng tròn đã qua
Em như một bóng cửa nhà
Sau gian lao đủ ngỡ là bình yên
Em như đốm lửa ưu phiền
Biết lo toan để nối liền ngày vui
Em như lớp lớp sóng dồi
Đắng cay đọng lại, ngọt bùi theo đi...
III. BỜ SÔNG VẪN GIÓ
Sau Chầm chậm tới mình (*) , Trúc Thông bắt đầu chạy Maratông (*). Có lẽ do mặc cảm, lại lo ngại đường xa, nên anh chạy quá nhanh. Nhanh đến mức tất cả thành loà nhoà. Anh chẳng còn nhìn thấy ai, và cũng chẳng để cho ai nhìn rõ anh. Có điều cái đích mà anh cần tới lại nằm xa dần ở phía... sau lưng: Bờ sông vẫn gió... ấy là nơi mẹ anh vẫn thường đi về. Bây giờ, bờ sông vẫn gió, nghĩa là cảnh vật vẫn thế, chỉ vắng mẹ thôi. Vốn là người con hiếu thảo, nhớ thương mẹ, Trúc Thông trở về, đi thập thững trên con đường xưa mẹ đi, anh quên mất mình là nhà cách tân. Và vì thế. anh đã cho chúng ta một bài thơ khá hay. Đây là bài thơ hay nhất trong đời Trúc Thông. Và bài thơ lại viết theo lối cổ điển, chả cách... một tý nào. Lời chắt. Ý sâu. Câu chữ như rút ruột mà thành.
Bài thơ vừa ra đời, bạn đọc đã đón nhận nồng nhiệt. Và ngay lập tức, người ta sẵn sàng quên đi những chỗ còn khiếm khuyết của nó, và đồng thời cũng quên luôn cả những bài thơ được gọi là cách tân của anh.
BỜ SÔNG VẪN GIÓ
Chị em con kính dâng hương hồn mẹ
BỜ SÔNG VẪN GIÓ
Chị em con kính dâng hương hồn mẹ
Lá ngô lay ở bờ sông
bờ sông vẫn gió,
người không thấy về
xin người hãy trở về quê
một lần cuối... một lần về cuối thôi
về thương lại bến sông trôi
về buồn lại đã một đời tóc xanh
lệ xin giọt cuối để dành
trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
cây cau cũ, giại (**) hiên nhà
còn nghe gió thổi sông xa một lần
con xin ngắn lại đường gần
một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi...
(*) Tên hai tập thơ của Trúc Thông
(**) Giại: cái giại, một thứ như bình phong đan bằng tre dựng trước hiên nhà ở những vùng quê Bắc Bộ.
Giữa lúc người ta xuôi về thành phố, thì Phạm Công Trứ lại ngược ra ngoại ô, trở về làng quê, và rồi anh cứ đi mãi, đi hút mãi về xứ dân gian, ở đó anh gặp Nguyễn Bính, và ngay lập tức, anh đã bị ông thi sĩ đồng hương này bắt mất hồn. Bởi vậy, có một nhà thơ ở bậc đàn anh, đọc xong Trứ bảo: Đời đã có một Nguyễn Bính rồi. Có nên cần thêm một Nguyễn Bính hạng hai, hạng ba nữa không? Nói thế thì oan cho Trứ quá. Anh đâu phải Nguyễn Bính. Dù có khoác tấm áo the, có đội cái khăn xếp xưa của Nguyễn Bính cũng đâu đã phải là Nguyễn Bính. Hãy xem cô gái nhà quê ra tỉnh này về thì rõ. Cái áo chẽn, cái quần bò đã khác xa cái áo the quần lĩnh cổ cài khuy bấm ngày xưa, chí ít cũng là sự khác biệt về mốt trang phục của thiếu nữ ở hai thời.
Dẫu khác thế, người đọc Phạm Công Trứ vẫn cứ nhớ đến Nguyễn Bính. Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu trải giữa làng văn rồi. Nhưng cái chiếu Trứ đang ngồi vào hiện nay, Nguyễn Bính đã ngả bóng mình xuống đó cách đây nửa thế kỷ. Bởi thế, thơ Trứ có chỗ quả cũng cớm nắng, xanh xao. Thiết tưởng, Trứ cũng có thể bắt chước người xưa, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Trời đã sinh ra Trứ, sao trước đó còn sinh ra Bính?
Làm sao quên được tuổi thơ
Tuổi vàng, tuổi ngọc - Tôi ngờ lời aiDẫu khác thế, người đọc Phạm Công Trứ vẫn cứ nhớ đến Nguyễn Bính. Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu trải giữa làng văn rồi. Nhưng cái chiếu Trứ đang ngồi vào hiện nay, Nguyễn Bính đã ngả bóng mình xuống đó cách đây nửa thế kỷ. Bởi thế, thơ Trứ có chỗ quả cũng cớm nắng, xanh xao. Thiết tưởng, Trứ cũng có thể bắt chước người xưa, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Trời đã sinh ra Trứ, sao trước đó còn sinh ra Bính?
Làm sao quên được tuổi thơ
Thủa ấy tôi mới lên mười
Còn em lên bảy theo tôi cả ngày
Quần em dệt kín bông may
áo tôi đứt cúc mực dây tím bầm
Tuổi thơ chân đất, đầu trần
Từ trong lấm láp, em thầm lớn lên
Bây giờ xinh đẹp là em
Em ra thành phố dần quên một thời
Về quê ăn tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
Gặp tôi, em hỏi hững hờ
Anh không lấy vợ, còn chờ đợi ai?
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê
Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may
V. CHỢ BUỒN
Đồng Đức Bốn đã là tác giả của hai tập thơ dày dặn mà trong đó phần lớn là thơ lục bát. Dường như lục bát là thể thơ sở trường của anh. Anh viết rất nhuần nhuyễn, điêu luyện. Nếu ví thi sĩ như một người thợ kim hoàn mà bậc cao nhất là 7/7, thì Đồng Đức Bốn là ông thợ vàng có tay nghề ở bậc 9/7. Giời hảo tâm, phóng khoáng trao cho anh đôi tay lão luyện nhà nghề, nhưng lại hại anh, chẳng cho anh một chút nguyên liệu vàng nào. Đi vào thế giới thơ anh, tôi có cảm giác bước vào một toà lâu đài sáng choang những vàng thoi, vàng nén, nhìn chỗ nào cũng óng ánh cả, ánh vàng ấy có thể làm loá mắt, choáng ngợp nhiều người, Nhưng nếu cứ bình tĩnh, nhắm mắt lại mà nhìn, và lấy đầu bút khẽ gõ vào toà lâu đài của anh thì thấy chúng không phát ra những âm thanh của kim ngân. Hoá ra đó là thứ vàng mạ. Anh mang đồng, chì, kẽm, và đôi khi, anh vác cả đất sét ra để mạ vàng. Tuy nhiên, mạ được vàng những thứ ấy, đâu phải là dễ.
Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em
Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày
Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu
Tôi giờ xa cách bao nhiêu
Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư...
Đến đây, chắc có bạn hỏi: Vì sao trong thơ lục bát Việt Nam, tôi lại chọn 5 bài thơ này? Cũng như 5 ngón tay trên một bàn tay, mỗi người sẽ có một cách giải thích khác nhau. Vì thế, mới sinh ra khoa bói tay. Chỉ có điều, tôi rất yêu bàn tay của mình. Và bạn ngắm lại xem, có thể cũng chính là bàn tay của bạn đấy. Còn nếu muốn ư? Tôi muốn các ngón tay đều thon thả búp măng, in những đường vân dành cho các đấng vua chúa...
Chợ buồn đem bán những vui
Đã mua được cái ngậm ngùi chưa em
Chợ buồn bán nhớ cho quên
Bán mưa cho nắng, bán đêm cho ngày
Chợ buồn bán tỉnh cho say
Bán thương suốt một đời này cho yêu
Tôi giờ xa cách bao nhiêu
Đem thơ đổi lấy những chiều tương tư...
Đến đây, chắc có bạn hỏi: Vì sao trong thơ lục bát Việt Nam, tôi lại chọn 5 bài thơ này? Cũng như 5 ngón tay trên một bàn tay, mỗi người sẽ có một cách giải thích khác nhau. Vì thế, mới sinh ra khoa bói tay. Chỉ có điều, tôi rất yêu bàn tay của mình. Và bạn ngắm lại xem, có thể cũng chính là bàn tay của bạn đấy. Còn nếu muốn ư? Tôi muốn các ngón tay đều thon thả búp măng, in những đường vân dành cho các đấng vua chúa...
Tết 1996
(In trong tập Chân dung và Đối thoại)
Thích bài Quê hương VN và Lời thề cỏ may.
Trả lờiXóaHG thích toàn bộ lời bình của Trần Đăng Khoa. Về thơ thì Lời thề cỏ may và Bờ sông vẫn gió, nhưng những bài thơ còn lại bài nào cũng có những khổ thơ yêu thích, cảm thấy hay đến kinh ngạc.
Xóa