Trang

Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016

Tiếng Vọng từ Chernobyl


Lời Tựa bản Việt Ngữ- Trích (1) 

clip_image001
  

        Ngày 26 tháng 4 năm 1986, nhà máy phản ứng hạt nhân Chernobyl của Liên Xô nằm trên lãnh thổ nước cộng hoà Ukraine đã phát nổ, gây nên một thảm hoạ tệ hại nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại vì những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến ba phần tư lãnh thổ châu Âu sẽ còn kéo dài hàng thế kỷ. 
     Trước khi bị tan rã năm 1991, Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hoà : Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Kazhakhstan, Kyrgyzstan, Latvia, Lithuania, Moldavia, Russia, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Trong số này, Nga (Russia) là nước lớn nhất và đông dân nhất, kế đó là Ukraine.
     Nhà máy hạt nhân Chernobyl nằm trên khu vực cách thủ đô Kiev của Ukraine 130 Km về hướng Bắc và cách ranh giới phía nam của Belarus 20 Km. Rạng sáng ngày 26 tháng 4 năm 1986, một tiếng nổ kinh hoàng đã phá tan mái lò phản ứng số 4 ( có tất cả 4 lò trong khu vực) và bụi phóng xạ đã từ đó bay ra làm ô nhiễm không khí ( khu vực bị ô nhiễm được ước tính là khoảng ba phần tư châu Âu). Nguyên nhân của vụ nổ được cho là một lỗi lầm do thiết kế đã làm cho “máy phản ứng hạt nhân “bị nóng quá sức chịu đựng của nó (overheat) và phát nổ.
     Thoạt đầu, con số thương vong vì vụ nổ do nhà cầm quyền Liên Xô đưa ra rất khiêm tốn: chỉ có 31 người chết. Và cũng theo ước tính ban đầu, khu vực bị nhiễm phóng xạ không quá chu vi 30 Km tính từ nhà máy số 4, bao gồm thành phố Pripyat, nơi cư ngụ của hàng ngàn công nhân làm việc ở nhà máy cùng với gia đình của họ.
     Mới nhìn qua, tai nạn Chernobyl chẳng có ý nghĩa gì so với số người chết do động đất, bão táp hoặc về diện tích thiệt hại so với một cuộc cháy rừng. Nhưng thực tế cho thấy, thiệt hại về con người và môi trường vượt quá sự ước tính mà khoa học có thể phác hoạ được.
     Cho đến nay, đã có 485 ngôi làng, thành phố bị xoá sổ, 2.1 triệu người sống trên những vùng đất bị nhiễm xạ rất nặng. Con số chính thức người chết vì phóng xạ chưa có cách gì kiểm chứng được, nhưng đã có hàng ngàn trẻ em sinh ra với những dị tật mà nguyên nhân là cha mẹ chúng đã bị nhiễm phóng xạ hoặc sống trong vùng bị nhiễm xạ. Hàng chục ngàn người khác vẫn còn mang trên người những chứng bệnh cả trên thể xác lẫn tinh thần không thể chữa trị.
     Con số thiệt hại to lớn ấy còn có nguyên nhân đến từ cung cách đối phó với vụ nổ , một cung cách rất điển hình của những nhà nước cộng sản. Họ tìm cách che giấu tin tức, hoặc làm giảm nhẹ tầm thiệt hại , không cho thế giới bên ngoài và chính công dân của mình biết rõ sự thực về điều gì đã và đang xẩy ra. Ngay cả cư dân của thành phố Pripyat, nơi nhà máy phát nổ, cũng bị chính quyền dấu diếm không cho biết rõ nguyên nhân và hậu quả không thể tránh khỏi. Vì thế, đội giải cứu được gởi đến nhà máy với những trang thiết bị thật thô sơ, không được bảo vệ cho chính người đến giải cứu nạn nhân vụ nổ. Cư dân của khu vực xẩy ra vụ nổ mãi đến gần 40 tiếng đồng hồ sau mới được lệnh chính quyền di tản. Vào thời điểm này, rất nhiều người đã bị nhiễm độc phóng xạ ở những mức độ khác nhau.
     Do cách đối phó vô trách nhiệm ấy, các biện pháp bảo vệ an toàn công cộng đã không được thực hiện kịp thời và đúng mức. Những nghiên cứu y khoa hiện nay đã phát hiện ra sự tương quan về con số người mắc bệnh ung thư ngày càng gia tăng ở những khu vực bị ô nhiễm, đặc biệt là ở vùng đất gồm 3 nước: Nga, Ukraine và Belarus. Theo ước tính, hậu quả nghiêm trọng về môi trường và sức khoẻ con người ở khu vực này còn kéo dài cả hàng thế kỷ.
     Một hậu quả khác không thể không nhắc tới là những chấn thương tâm lý nặng nề cho người dân khu vực nhiễm xạ. Một chứng bệnh hỗn loạn tâm lý có tên Hội chứng Chernobyl (Chernobyl Syndrome) thường thấy ở những người bị ám ảnh, sợ hãi bởi sự dấu diếm, lừa dối, che đậy của nhà cầm quyền qua vụ nổ nhà máy hạt nhân. Hội chứng này không phải là hậu quả của vụ nổ nhà máy, mà chính là kết quả không thể tránh khỏi của sự không lương thiện, vô trách nhiệm nói trên.
     Tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl” của nhà văn đoạt giải thưởng văn chương Nobel năm 2015 Svetlana Alexievich là tác phẩm văn chương đầu tiên lấy chủ đề chính từ vụ nổ nhà máy hạt nhân Chernobyl. Tác phẩm là tổng hợp những câu chuyện kể của từng con người , trực tiếp hoặc gián tiếp là nạn nhân của vụ nổ, xa hơn nữa, là nạn nhân của chính cách đối phó với thảm hoạ của nhà cầm quyền. Mỗi câu chuyện bộc lộ sự đau khổ, sự mất mát, sự sợ hãi, nỗi giận dữ, cảm thức bất an mà mỗi người kể cùng với gia đình họ đã trải qua.
     Để ghi lại bi kịch của từng nạn nhân nói trên , tác giả – vốn xuất thân là một nhà báo chuyên nghiệp – đã để ra thời gian 10 năm đi phỏng vấn khoảng năm trăm nạn nhân vụ nổ, từ những người dân thường, nhân viên cứu hoả cho đến những công nhân được giao phó nhiệm vụ dọn dẹp .
     Do nội dung là những chứng từ trung thực, phản ánh mọi khía cạnh của thảm hoạ, từ bản thân vụ nổ, nguyên nhân, hậu quả cho đến cách đối phó trong lúc và sau vụ nổ của các giới chức trách nhiệm, nên tác phẩm đóng vai trò bản cáo trạng một chế độ chỉ biết lấy lừa bịp, dối trá làm phương châm hành xử. Chính vì lý do này mà tác giả của nó đã bị chính quyền độc tài Lukashenka của Belarus kết án và bị buộc phải sống lưu vong từ năm 2000 đến năm 2011.
     Tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl “ của Svetlana Alexievich đã góp phần quan trọng để Ủy ban chấm giải Nobel Thụy Điển quyết định trao giải thưởng văn chương năm 2015 cho tác giả. Quả thật, như nhận định của ủy ban chấm giải, những tác phẩm của bà là “một tượng đài cho sự thống khổ và lòng can đảm trong thời đại chúng ta.”.
     Tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Nga Keith Gessen, dịch giả bản Anh ngữ của “Tiếng vọng từ Chernobyl “ (mà chúng tôi dựa vào để chuyển ngữ sang tiếng Việt), khi hay tin Svetlana Alexievich được trao giải văn chương Nobel 2015, đã bày tỏ ý kiến rằng, khi thế giới thực sự cảm thấy bực bội với nước Nga thì sự kiện một nhà văn có gốc gác từ đó được trao giải Nobel không nằm ngoài sự mong đợi của nhiều người. Nhất là đó lại là một nhà văn phản kháng đã từng chính thức lên tiếng phê phán chế độ (trong trường hợp Svetlana Alexievich là chế độ ở Belarus). Hành động này phải được hiểu là một sự “quở trách”(rebuke) gởi đến điện Kremlin.
     Bằng hình thức để mỗi nạn nhân tự độc thoại về những suy nghĩ của mình với tư cách người trong cuộc, tác giả “Tiếng vọng từ Chernobyl “ đã đưa người đọc len lỏi vào tận ngõ ngách tâm hồn mỗi người, cảm được nỗi đau mất con, mất chồng, mất người thân một cách trực tiếp không qua trung gian của ngôn từ văn vẻ, cường điệu, hiểu được nỗi giận dữ, sự sợ hãi mà mỗi người trong cuộc biểu lộ bằng hình thức đơn sơ nhất, giản dị nhất. Có thể nói, chất liệu làm nên “Tiếng vọng từ Chernobyl “ là chất liệu ròng, rất ít có sự dụng công gọt dũa của tác giả. Nhìn từ góc độ “vị nhân sinh“ trong quan niệm văn chương của tác giả, đây là một lựa chọn khôn ngoan vì nó gây hiệu quả cao nhất trong ý đồ tố cáo chế độ, cảnh tỉnh thế giới về một hiểm hoạ tương tự có thể xẩy ra ở bất cứ đâu trên thế giới.
     Mặt khác, để giải thích cho phong cách viết của mình, trong bài phát biểu tại Đại Hội Văn Chương Quốc Tế tổ chức lần đầu tiên ở New York tháng 4 năm 2005, Svetlana Alexievich đã cho biết, ở những quốc gia Đông Âu, ngôn ngữ nói giữ vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ không chỉ được dùng để truyền đạt thông tin và sự kiện – mà quan trọng hơn nữa – nó phải nói lên được bản chất của đời sống và những bí nhiệm đến từ con người. Ngôn ngữ nói trên đường phố, trong đám đông, trong những sinh hoạt thường ngày giúp người ta hiểu được dễ dàng hơn đời sống cùng với những vui, buồn, sướng, khổ, giận dữ, sợ hãi, mà đã là con người, ai cũng đã từng trải qua, sống với, chịu đựng với, hân hoan với.
     Vì thế, với Svetlana Alexievich, mỗi tác phẩm của bà có sự đóng góp của rất nhiều người khác nhau. Một người nói nửa trang, người kia nói vài dòng, người khác nữa có thể chỉ có một câu. Bà gọi đó là “ tiểu thuyết của những tiếng nói” và tự cho mình chỉ là kẻ làm công việc đi nhặt những chất liệu tác phẩm của mình trong đám đông, ngoài đường phố, rồi đem về sắp xếp chúng lại. Những nhà văn trên thế giới, từ xưa tới nay, viết nên tác phẩm của mình bằng ngòi bút, còn Svetlana Alexievich khẳng định rằng mình viết bằng cái tai.
     Tác giả bản Anh ngữ của tác phẩm là một nhà văn người Mỹ gốc Nga, nên chúng tôi suy đoán rằng khi chuyển ngữ tác phẩm từ nguyên bản tiếng Nga, ông đã cố bảo toàn “phong cách Slavic” mà “ ngôn ngữ nói” của tác phẩm được tác giả sử dụng một cách đầy dụng ý.
     Do vậy, khi làm công việc chuyển ngữ tác phẩm này, chúng tôi ý thức được rằng ngoài việc chuyển tải nội dung thực sự của từng câu nói, còn cần phải giữ được bản sắc “văn nói” của “phong cách Slavic” và đồng thời phải không được phép quên rằng đây là một bản văn tiếng Việt ( dù là bản dịch từ một ngôn ngữ khác), trước hết nó phải mang phong cách Việt, từ câu chữ đến cách diễn đạt.
     Ý định là như vậy, nhưng có làm được hay không, và làm được đến đâu lại là một chuyện khác. Nhưng dù sao cũng xin được kính cáo về thiện ý và cố gắng của người làm công việc chuyển ngữ tiếng Việt tác phẩm này.
     Cuối cùng, chúng tôi quyết định dành thì giờ giới thiệu tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl “ đến với độc giả tiếng Việt, không chỉ vì tác giả của nó vừa được trao giải thưởng Nobel về văn chương, – thành thực mà nói sự kiện này góp phần làm tăng uy tín tác giả và giá trị tác phẩm – mà còn vì tác giả của nó là một nhà văn phản kháng chế độ độc tài toàn trị ở nước mình. Đất nước Belasus với gần 9 triệu dân, đã trải qua thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất lịch sử nhân lọai mà hậu quả của nó còn kéo dài nhiều năm về sau, đang chịu đựng một chế độ hà khắc của “nhà độc tài cuối cùng của châu Âu “ Aleksandr Lukashenka từ năm 1994 ngay sau khi thoát ra khỏi được nhà nước cộng sản Liên Xô. Tất nhiên, sự đau khổ và sức chịu đựng của dân tộc Belarus quả là lớn lao, nhất là trong bối cảnh thế giới ở thế kỷ 21. Những nỗi thống khổ và sự can đảm đối phó với họan nạn của dân tộc Belarus đã được dựng tượng đài tôn vinh trong những tác phẩm văn chương của một người con ưu tú mà đất nước nhỏ bé này sản sinh được: Nhà văn Svetlana Alexievich. Việc Ủy ban Giải Nobel Thụy Điển quyết định trao giải thưởng văn chương năm 2015 cho bà , không chỉ để vinh danh một tài năng văn học thế giới, mà còn gián tiếp – và quan trọng hơn – trân trọng những nỗi thống khổ mà dân tộc Belarus phải chịu đựng, đồng thời vinh danh lòng can đảm mà người dân nước này đang hàng ngày phải đối phó với chế độ độc đảng của Aleksandr Lukashenka, với hậu quả khôn lường của vụ nổ hạt nhân Chernobyl.
(...)
     Về hình thức, các truyện kể trong “Hành trình biển Đông “ là do chính người trong cuộc viết lại, không có bàn tay dụng công biên tập của người chuyên nghiệp. Ở “Tiếng Vọng từ Chernobyl”, có bàn tay sắp xếp của một nhà văn, hơn nữa, một nhà văn có tầm cỡ. Nhưng cũng khó lòng để nhìn thấy bàn tay dụng công của nhà văn đến mức độ nào và tác động của công việc ấy đến những câu chuyện kể.
     Mục đích của việc lưu truyền những câu chuyện về thảm cảnh mà người này, người nọ, ở bất cứ nơi nào trên thế giới phải chịu đựng, chính là để đánh động lương tâm con người. Từ giây phút lương tâm mỗi người bị đánh động, hẳn sẽ có những người không chịu ngồi yên một khi nhìn thấy những nguy cơ khiến thảm kịch ấy có thể tái diễn.
     Có lẽ nhà văn Svetlana Alexievich đã muốn xác định nhiệm vụ lớn nhất của một nhà văn khi phát biểu trong buổi họp báo tại Minks sau khi được tin mình sẽ nhận giải Nobel văn chương 2015:” Điều duy nhất làm tôi luôn nhức nhối là câu hỏi: tại sao chúng ta không học được điều gì từ những nỗi thống khổ mà chúng ta đang phải gánh chịu? Tại sao chúng ta không thể nói: tôi không muốn làm người nô lệ thêm một ngày nào nữa? Tại sao chúng ta cứ tiếp tục chịu thống khổ mà không hề phản kháng? Tại sao chúng ta cứ xem nó như là gánh nặng phải mang, là số phận phải cam chịu? Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi muốn những tác phẩm của mình gợi lên được những suy nghĩ từ người đọc, để từ đó, họ đi tìm câu trả lời cho chính mình.”T.Vấn : Giải Nobel Văn Chương 2015 và sứ mạng nhà văn trong thời đại chúng ta ).
     Chúng ta mỗi người sẽ suy nghĩ, sẽ tự tìm câu trả lời cho lương tâm của mình sau khi đọc xong “Hành trình Biển Đông “, “ Tiếng Vọng từ Chernobyl” và tất cả những quyển sách, những bài viết, những truyện ngắn ,truyện dài, những bài thơ , những bài hát . . .
(...)
     Để mỗi người đọc, sau khi đóng màn hình máy tính, sẽ nhớ lại những nỗi đau khổ của chính mình, của chính dân tộc mình, mà không thể ngồi yên vô cảm được nữa trước những điều ác, dù điều ác ấy đến từ một chế độ độc tài với đầy đủ quyền hành để đàn áp trong tay.

(Bản Việt ngữ do T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện, dựa trên bản Anh ngữ của Keith Gessen, Nhà Xuất Bản Dalkey Archive Press –Normal – London 2005. (2))

Keith Gessen: Lời Tựa của bản Anh Ngữ

     Ngày 11 tháng 9 năm 2001, sau khi chiếc máy bay thứ nhất của bọn khủng bố đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (WTC), các tiền trạm y tế khẩn cấp đã được thiết lập ở nhiều nơi trong thành phố New York. Các bác sĩ, y tá hối hả đến bệnh viện tình nguyện nhận thêm ca trực phụ trội và rất nhiều người khác đến để sẵn sàng hiến máu. Đây là những cử chỉ hào phóng bầy tỏ thái độ sẵn sàng chia sẻ khi hoạn nạn. Điều đau lòng xẩy ra sau đó là những cử chỉ hào phóng đó và các trạm đón tiếp nạn nhân đã không còn cần thiết nữa. Có rất ít người sống sót sau khi toà tháp đôi WTC sụp đổ.
     Sự thiệt hại khi nhà máy hạt nhân phát nổ gây nên hoả hoạn ở Chernobyl lại hoàn toàn ngược lại với tai nạn khủng bố ở WTC. Ban đầu,tiếng nổ ở Chernobyl chỉ làm chết một công nhân của nhà máy, Valeriy Khodomchuk, và trong mấy tuần lễ kế tiếp sau đó chỉ có chưa tới 30 công nhân và lính cứu hoả chết vì bị nhiễm phóng xạ nặng. Nhưng hàng chục ngàn người khác đã bị nhiễm độ phóng xạ rất cao- Đây là một tai nạn mà – theo một cách nhìn khác – số người sống sót nhiều hơn người chết- và quyển sách này là để nói về họ.
     Phần lớn những chất liệu sử dụng trong quyển sách có thể khiến người đọc nhăn mặt vì sự gớm ghiếc. Ở cuộc phỏng vấn đầu tiên, Lyudmilla Ignatenko, vợ một người lính cứu hoả mà đơn vị của anh ta có mặt tại hiện trường sớm nhất, nói về sự huỷ hoại trên lớp da của chồng trong tuần lễ trước khi anh ta qua đời. Lyudmilla đã mô tả một hình ảnh rất ghê sợ mà lẽ ra chúng ta sẽ không bao giờ phải chứng kiến. “Chỉ một nếp gấp trên tấm drap giường cũng đủ làm anh ấy rách da.” Cô kể : “Tôi phải cắt móng tay mình sâu đến độ cấn cả vào thịt bật máu để không vô tình làm chồng bị thương vì nó.”
     Có những đọan phỏng vấn nghe xong không thể không thấy rợn người. Viktor Iosifovich Verzhikovskiy, hội trưởng hội những người thợ săn và ngư phủ thiện nguyện của thành phố Khoyniki, kể lại buổi gặp gỡ của anh ta với các viên chức đảng ủy khu vực vài tháng sau vụ nổ. Họ bảo Viktor rằng, ở Khu Cấm, tên gọi được chính quyền Liên Xô đặt cho vùng đất nằm trong chu vi 30 Km của nhà máy hạt nhân Chernobyl, tuy người dân đã được di tản đi hết, nhưng vẫn còn lại súc vật nuôi trong nhà. Những con chó, mèo mà lông của chúng dính đầy bụi phóng xạ, hay đi lung tung ra khỏi Khu Cấm. Cánh thợ săn được lệnh phải tìm và bắn chết hết chúng không chừa con nào. Còn nhiều câu chuyện khác nữa được kể lại, đặc biệt là về nỗ lực “khử xạ” vùng đất nằm trong Khu Cấm – công việc đào đất thật sâu để chôn cây cối, nhà cửa đã bị nhiễm bụi độc – cũng mang màu sắc truyện của Gogol(1): Những họat động bình thường của con người bỗng trở nên biến dạng.
     Nhưng cuối cùng, chính ngay sự bình thường, đơn điệu trong những lời kể của nhân chứng đã viết nên một bản báo cáo mang tính nhân bản độc nhất. Arkady Filin, người bị cưỡng bách sung vào đội “Thanh Toán”, tức nhóm người làm công việc dọn dẹp, nói : “ Tôi biết bà tò mò muốn biết chuyện gì đã xẩy ra. Những ai không có mặt ở đó thì luôn tò mò. Đó vẫn là thế giới của con người. Họ uống Vodka. Họ chơi bài, đi tìm gái.” Hoặc, qua những lời của nhóm thợ săn:” Chiếc xe Jeep cán ngang qua con rùa, vậy mà vỏ nó không bị hề hấn gì. Tất nhiên, chỉ khi say chúng tôi mới làm như vậy.” Ngay đến cả những trường hợp tuyệt vọng nhất cũng vẫn chỉ là một phần của “ thế giới những con người”, với những ưu tư, lo lắng của con người. Chồng của Valentina Timofeevna Panasevich, một người ở trong toán dọn dẹp ở Chernobyl, sau khi được mãn nhiệm thì vài năm sau mang trong người căn bệnh ung thư . Khi biết mình không thể tiếp tục cuộc chiến không cân sức, anh dặn vợ:” Khi anh chết, bán chiếc xe với cái vỏ xe dự trữ đi. Nhớ là đừng có lấy Tolik.” Tolik là anh của anh ta. Nghe lời chồng, Valentina không tái hôn với Tolik.
*
     Svetlana Alexievich thực hiện những cuộc phỏng vấn này năm 1996 – thời điểm mà tư tưởng chống cộng vẫn còn thịnh hành với vai trò là một chính kiến trong xã hội hậu Xô Viết. Sự thực hiển nhiên là, vụ nổ ở nhà máy phản ứng hạt nhân Chernobyl tuy chỉ là một tai nạn không ai cố ý làm cho nó xẩy ra, nhưng nhìn ở một khía cạnh khác, nó cũng là hậu quả không thể tránh khỏi của thái độ vô cảm đáng sợ trước an nguy của xã hội, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi, cộng thêm sự lười biếng, thói bè phái cửa quyền. Giới văn học, khi bàn về thảm hoạ Chernobyl, hầu như hoàn toàn đồng ý với nhau rằng chính nhà cầm quyền Xô Viết phải là người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc nhà máy hạt nhân vốn đã được thiết kế cẩu thả, lại còn giao nó cho những người không đủ khả năng chăm sóc, điều hành. Sau khi tai nạn xẩy ra, như lời chứng thực của những nạn nhân được phỏng vấn, lại dối trá, che đậy sự thực bằng cung cách đáng bị đem ra xét xử như những tên tội phạm. Ngay trong 10 ngày đầu tiên của vụ nổ, khi mà những hạt nhân vẫn còn đang cháy âm ỉ và phóng thích ra môi trường xung quanh lớp bụi phóng xạ độc hại, thì các giới chức trách nhiệm không ngừng lặp đi lặp lại rằng tình hình đã hoàn toàn được kiểm soát chặt chẽ. Một trong những quả phụ có chồng bị đưa đến làm công việc dọn dẹp ở Chernobyl nói với Alexievich: ”Nếu tôi biết trước thế nào chồng tôi cũng bị nhiễm bệnh vì bụi phóng xạ, tôi sẽ đóng chặt mọi cửa nẻo và khóa lại bằng tất cả những ổ khóa mà tôi có được.”. Chẳng may, không ai biết được số phận của mình đã được định đọat.
     Tuy nhiên, tất cả những chứng từ này cũng làm rõ được một điều: không phải nhà cầm quyền Xô Viết cứ để mặc cho nhà máy Chernobyl cháy mà không làm gì hết. Đây là một sự kiện đáng được chú ý. Một mặt, đó là sự bất lực, vô cảm và dối trá toàn diện. Mặt khác, những nỗ lực đến độ điên cuồng nhằm đối phó với hậu quả vụ nổ. Ngay trong tuần lễ sau đó, trong khi vẫn thẳng tay bác bỏ mọi nguồn tin về mức độ nghiêm trọng của sự việc với thế giới bên ngoài, nhà cầm quyền Xô Viết đã đưa hàng ngàn người đến điểm chết Chernobyl. Họ dùng trực thăng thả những bao đựng cát xuống hòng dập tắt đám cháy từ những lò phản ứng hạt nhân (Các phân tích sau này cho thấy việc làm này gây hại nhiều hơn lợi). Khi lửa tắt, họ leo lên mái nhà máy, dọn dẹp đống đổ nát chứa đầy chất phóng xạ. Máy móc họ mang theo đã bị chất phóng xạ làm cho trở nên vô dụng vì không họat động được. Còn con người thì phải mất hàng tuần hoặc hàng tháng sau mới bị gục ngã. Đến thời điểm này thì cái chết của con người rất đáng sợ.
     Năm 1986, chính quyền Xô Viết ném những nhân viên cứu hộ không được huấn luyện kỹ lưỡng, không được trang bị những phương tiện bảo hộ cần thiết vào lò lửa hạt nhân Chernobyl cũng giống như năm 1941 họ ném những người lính chưa được huấn luyện, không được trang bị vũ khí đối diện với Wehrmacht(2), hy vọng rằng quân Đức sẽ phải ngừng tiến quân đủ lâu để có thì giờ bắn chết những người lính Liên Xô tội nghiệp này. Nhưng, như viên quản đốc viện bảo tàng Chernobyl đã giải thích một cách chính xác, nếu những cố gắng tuyệt vọng này không được thực hiện, thì hậu quả vụ nổ còn tệ hại hơn rất nhiều.
*
     Ở Belarus, từ lúc những cuộc phỏng vấn này được thực hiện cho đến nay, hầu như mọi chuyện vẫn như cũ vì có rất ít những thay đổi. Thời điểm năm 1996, Aleksandr Lukashenka(3) là nhân vật ít được biết đến trong số “hai nhà độc tài cuối cùng“ của Châu Âu. Bây giờ thì Slobodan Milosevic(4) đang phải trả lời những tội ác của mình trước tòa án quốc tế Hague, còn Lukashenko vẫn còn giữ vững địa vị. Ông ta đàn áp mọi nỗ lực nhằm đòi quyền tự do tư tưởng và các đối thủ chính trị của ông ta tiếp tục ”biến mất”. Về vùng đất nhiễm xạ Chernobyl, ông ta khuyến khích những cuộc nghiên cứu có mục đích chứng minh rằng vùng đất này đang ngày một trở nên an toàn hơn và rằng những họat động nông nghiệp cần sớm được phục hồi. Năm 1999, nhà Vật Lý học Yuri Bandazhevsky, là bạn và là đồng nghiệp của Vasily Borisovich Nesterenko (Trả lời phỏng vấn ở phần), tác giả bản báo cáo chỉ trích khuynh hướng coi nhẹ an toàn công cộng trong chính sách của chính quyền Belarus và tố cáo Belarus cố ý xuất khẩu những thực phẩm bị nhiễm xạ ra các thị trường ngoài nước. Đến nay, Bandazhexsky vẫn còn bị nhà cầm quyền giam giữ.
Keith Gessen (2005).
Chú Thích( của bản Việt Ngữ):
1.Nikolai Gogol (1809-1852)-nhà văn Nga, tác giả Dead Souls (Những linh hồn chết)
2. Wehrmacht- Tên gọi lực lượng quân sự phối hợp của Đức Quốc Xã, bao gồm 3 binh chủng Hải, Lục và Không quân.
3. Aleksandr Lukashenka (1954- )- Cựu ngọai trưởng Mỹ, bà Condoleezze Rice, gọi Lukashenko là “nhà độc tài cuối cùng của châu Âu”.Tổng thống Belarus từ năm 1994 cho đến nay.
4. Slobodan Milosevic (1941-2006)- Tổng thống Serbia từ năm 1989 đến 1997 và từ năm 1997 đến năm 2000 là Tổng thống nước Cộng Hòa Nam Tư. Tháng 2 năm 2002, bị đưa ra tòa án quốc tế Hague ở Hòa lan để xét xử về tội diệt chủng và các tội ác chiến tranh khác. Ngày 11 tháng 3 năm 2006, Milosevic chết vì bệnh tim trong lúc vẫn còn bị giam giữ trong nhà tù.
*về Keith Gessen :
Sinh năm 1975 tại Moscow trong một gia đình gốc Do Thái. Năm 1981, cùng với cha mẹ định cư tại Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Mẹ của ông là một nhà phê bình văn học và cha là chuyên viên nghiên cứu máy tính điện tử.
Gessen tốt nghiệp đại học Havard, ngành Sử và Văn chương. Thường xuyên viết bài điểm sách cho New York Magazine, cùng lúc, ông chuyên về nước Nga trong các bài vở viết cho The New Yorker, The Lodon Review of Book, The Atlantic và The New York Review of Book.
Ngoài bản chuyển ngữ sang tiếng Anh tác phẩm “Voices from Chernobyl“ của nhà văn Belarus Svetlana Alexievich năm 2005, Gessen còn là tác giả tác phẩm tiểu thuyết “All the sad young literary men” xuất bản năm 2008, “Diary of a Very Bad Year: Confessions of an Anonymous Hedge Fund Manager”, một quyển sách nghiên cứu về cuộc khủng hoảng tài chánh, xuất bản năm 2010. . . .
Gessen hiện đang làm chủ bút một số các tạp chí văn học, chính trị, văn hóa định kỳ có tòa soạn đặt ở thành phố New York. (TV&BH)

----------------------------------------------------------
(1) HG cắt một số đoạn trong Lời tựa bản Việt ngữ.  Đọc đầy đủ ở đây
(2) Đọc toàn bộ tác phẩm Tiếng vọng từ  Chernobyl. Tác giả: Svetlana Alexievich. Giải Nobel về văn chương năm 2015.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét