HG: Đọc bài này, lại trạnh lòng... Mà không phải đa số bằng cấp đều có vấn đề đâu thầy ạ! Không đến nỗi như vậy. Số đó chỉ là thiểu số.
Nhưng thưa thầy, thầy viết nhiều phần đúng. Chẳng hạn, con cũng thấy ngượng ngùng mỗi khi nghe những lời tôn vinh ấy... Ngoài ra có nhiều điều con nghĩ, con chứng kiến, thì thầy cũng đã viết cả...
1. Năm 1962, tốt nghiệp Phổ thông, tôi nộp đơn thi vào trường Sư phạm một cách hoàn toàn tự nguyện. Ngay từ khi còn quàng khăn đỏ, tham gia các phong trào Bình dân học vụ đi xóa nạn mù chữ cho bà con ở các khu lao động Phúc Tân, Phúc Xá ngoài đê sông Hồng, rồi Bổ túc văn hóa, dạy lớp 5, lớp 6 cho y tá, hộ lý ở Bệnh viện Mắt phố Bà Triệu, thanh niên trong làng, …đã khiến tôi yêu thích nghề này.
(Những năm ấy, cũng như tất cả các ngành nghề khác, học hết lớp 7 đã có thể thi vào trường Trung cấp y, sau 2 năm học đã có bằng y sĩ, có quyền khám bệnh, cho đơn thuốc; học hết lớp 4, theo học sơ cấp một năm đã có thể làm y tá, còn hộ lý hình như chỉ yêu cầu đọc thông viết thạo. Không biết trình độ chuyên môn của những y sĩ, y tá, hộ lý thời ấy so với những người có bằng cấp tương đương giờ đây ra sao, nhưng chắc chắn ý thức trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của họ hơn hẳn những người làm trong các cơ sở y tế ngày nay cho dù lúc ấy, chưa hề có khẩu hiệu “lương y như từ mẫu”).
Bước chân vào trường Sư phạm, mỗi khi lên Hội trường lớn (đủ chỗ ngồi cho khoảng nghìn người mà toàn bằng tranh tre nứa lá) nghe giảng các môn học chung cho mọi khoa như Chính trị, Tâm lý, Giáo dục, … luôn thấy một câu khẩu hiệu đập vào mắt: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Đây vốn là một câu trích ra trong bài nói chuyện của ông Phạm Văn Đồng khi tới thăm trường. Tuổi còn trẻ, lại có cái hồ hởi, háo hức vì mới trúng tuyển một cuộc thi lớn, anh nào cũng thấy âm ỉ sung sướng vì được cao quý hơn thiên hạ. Nhưng chỉ cần ra trường được vài ba năm, thực tế cuộc sống khắc nghiệt, những gian khổ trong nghề nghiệp ở những nơi xa xôi đã khiến bọn tôi tỉnh ngộ. Đơn giản chỉ là, có “nghề cao quý nhất” vậy nghề nào là cao quý thứ hai? Và nghề nào là không cao quý?
Tác giả của câu nói chắc do ngẫu hứng trong chốc lát, để động viên các chàng trai cô gái sinh viên mới bước vào đời còn trẻ người non dạ. Chả là thời kỳ này, trong giới thanh niên học sinh còn lan truyền câu thành ngữ mới trong việc chọn trường, chọn nghề: “Nhất Y nhì Dược, tạm được Bách khoa, Sư phạm thông qua, Nông lâm bỏ xó”, hay “Chuột chạy cùng sào mới vào Sư phạm". Câu nói như một lời khích lệ nhất thời, sau đó lẽ ra nên để “lời nói gió bay”. Không ngờ tới hơn nửa thế kỷ sau, mỗi khi vào tháng 9, dịp khai giảng và nhất là tháng 11, có ngày Nhà giáo Việt Nam, các thầy cô giáo được đồng loạt đưa lên mây xanh. Thường ngày gian nan với cuộc sống thiếu thốn, bị lên án vì “dạy thêm học thêm”, bị “buộc tội” vì bệnh thành tích tạo nên bao sản phẩm “ngồi nhầm lớp”, “học giả bằng thật”, thoáng chốc, họ “đổi đời” thành những người làm “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”, thành “kỹ sư tâm hồn” và được nhận biết bao những lời đẹp đẽ. Chưa có một cuộc điều tra để xem bao nhiêu phần trăm những người làm nghề dạy học thấy vinh dự, tự hào khi nghe những “lời nói có cánh” này, nhưng chắc chắn có một tỷ lệ không nhỏ những người đang đứng trên bục giảng cảm thấy ngượng ngùng (nếu chưa nói là xấu hổ) khi hàng năm vẫn phải nghe những lời tôn vinh rỗng tuếch đó.
Ngượng ngùng vì xuất thân từ những gia đình tử tế, người ta từ nhỏ đã được dạy không được phép coi mình được xếp ở bậc cao hơn những người khác. Họ hiểu rằng, dạy học cũng chỉ là một nghề như biết bao nghề nghiệp khác theo sự phân công của xã hội. Mà:
"Mỗi người thì có một nghề,
Con phượng thì múa, con nghê thì chầu."
"Mỗi người thì có một nghề,
Con phượng thì múa, con nghê thì chầu."
Vinh quang không phụ thuộc vào nghề nghiệp, nó chỉ được quyết định bởi thái độ, ý thức của con người khi thực hiện trách nhiệm của mình.
2. Cái lối “nói lấy được” bất chấp thực tế cuộc sống đã cố quên đi một thực trạng đau lòng: được coi là nghề cao quý nhưng các trường Sư phạm hiện nay đang không thu hút được những học sinh giỏi sau khi tốt nghiệp Phổ thông trung học. Một hồi, nhờ chính sách miễn học phí, chất lượng đầu vào cho các trường Sư phạm đã phần nào được giải quyết, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, cái thực tế khắc nghiệt của đời sống đã khiến cho những học trò khi làm hồ sơ thi vào đại học chẳng mấy mặn mà với nghề “gõ đầu trẻ” trong tương lai. Học phí trong 4 năm học là số tiền lớn nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ trong biết bao tốn kém của những năm tháng, và lựa chọn vượt khó khăn trong 4 năm hay suốt cả cuộc đời đã khiến nhiều người quay lưng với sự ưu đãi. Nhiều năm bài toán vẫn chưa tìm được lời giải, thì mới đây, theo một điều tra của PGS. TS. Vũ Trọng Rỹ (Viện Khoa học giáo dục) “Một nửa giáo viên hối hận vì nghề đã chọn”. Có nghĩa là các trường học ở nước ta đang được dạy bởi một nửa các thầy “bất đắc dĩ”. Người ta chỉ có thể làm một việc gì miễn cưỡng, “bất đắc dĩ” ở một thời điểm hay trong một thời gian ngắn. Khi ấy, ý chí, nghị lực, tinh thần trách nhiệm, … có thể khiến công việc được hoàn thành chứ mấy ai “gồng” được mình lên trong suốt cả cuộc đời? Được những người thầy như thế dạy dỗ, sao học trò được “dạy chữ, rèn người” chu đáo, tận tụy như cha mẹ họ kỳ vọng. Và hậu quả, chất lượng giáo dục hiện nay luôn trong tình trạng báo động và luôn luôn đi xuống.
Một vị vốn là Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm, sau đó đã từng là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đã than phiền: “Giáo viên cũ chuyển ngành, thế hệ trẻ thì quay lưng lại với nghề giáo. Một xã hội mà người thầy không ai muốn làm thì sẽ đi đến đâu?”. Làm sao cứ tự lừa mình bằng những cái huyễn hoặc mà cố tình quên đi câu hỏi nhức nhối này. Nó không chỉ liên quan đến hiện tại và tương lai của giáo dục, mà còn quyết định đến cả vận mệnh của dân tộc.
3. Nhớ lại các thầy tôi các đây nửa thế kỷ, ngoài sự mực thước về nhân cách, tận tụy với nghề nghiệp, bằng cấp của các thầy không cao. Thầy dạy cấp 2 cũng chỉ học hết lớp 7 (tương đương THCS bây giờ) sau đó học Trung cấp Sư phạm 2 năm. Thầy dạy cấp 3, nhiều người chưa có bằng đại học, ai có cũng chỉ học có 2 năm sau khi tốt nghiệp Phổ thông. Nhưng các thầy đều là những người uyên bác, “biết mười dạy một” vì với các thầy, sự học không chỉ dừng lại sau khi dời ghế nhà trường. Giờ đây, khi đã bước vào những năm tháng cuối đời, tôi không chỉ biết ơn các thầy vì những tri thức được truyền thụ, vì những thói quen tốt được rèn cặp mà trên hết là vì ngọn lửa ham học hỏi, ham hiểu biết các thầy đã nhen lên trong tôi từ những năm tháng niên thiếu đến nay vẫn chưa tàn lụi. Chính nó đã giúp tôi luôn luôn học ở mọi nơi, mọi lúc để mở rộng tầm hiểu biết, từ đó đủ bản lĩnh để sống theo cách riêng.
Từ nhiều năm nay, các thầy cô giáo mang tiếng được đào tạo rất bài bản, dạy tiểu học cũng có thể có bằng cao đẳng, đại học; dạy cấp THCS hay THPT cũng có thể có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ, nhưng những bằng cấp ấy đều có vấn đề. Khi đi học thì điểm được xin, được mua kết cục là cái mảnh bằng thì thật nhưng tri thức của người sở hữu thì giả.. Rồi khi ra trường, bước lên bục giảng, bằng lòng với những tri thức “đầu Ngô mình Sở” chẳng bao giờ thấy mua, thấy đọc một cuốn sách (trong khi cái xe máy, cái điện thoại lại vô cùng “sành điệu”)(...). Hiểu biết hạn hẹp tất sẽ dẫn tới nhân cách bị băng hoại, người làm nghề dạy học, được tôn làm “thầy” nhưng tầm mắt không vượt nổi cái mối lợi trước mắt của bản thân sao có thể dạy chữ, rèn người cho xứng với sự kỳ vọng của học sinh và cha mẹ họ?
Tôi cho rằng đây mới chính là chuyện đáng quan tâm trước hết nếu muốn nói tới cải cách hay đổi mới giáo dục. Những người thầy có nhân cách và có tri thức phong phú (do học trong nhà trường và hơn hết do tự học suốt cuộc đời) sẽ tự biết cần phải dạy những gì, dạy như thế nào để giúp thế hệ trẻ đủ hành trang trước khi vào đời cho dù chương trình, sách giáo khoa hay mọi sự chỉ đạo của cấp trên chẳng bao giờ tránh hết được những khiếm khuyết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét