Trang

Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015

Đòn ghen của Hoạn Thư

HG: Thế rồi dần dần nhận ra ai cũng là nạn nhân... Vậy tội tình ở đâu ra? Người ta lại bảo đấy là "lỗi hệ thống". Mà cụ Nam Cao dạy rồi, cái "hệ thống" đó chả là ai, cũng chẳng của riêng nhà nào...
Vietsciences-Võ Thu Tịnh 

Một bi hài kịch chống tục đa thê  

Hoạn Thư là một nhân vật trong "Đoạn Trường Tân Thanh"  của Nguyễn Du (1765-1820), cốt truyện dựa vào quyển "Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, mà nhân dịp đi sứ ở Trung Hoa (1813) cụ đã đem về nước. Đầu đuôi chuyện Hoạn Thư đánh ghen Kiều thế nào? Tưởng  có thể tóm lược lại như sau:
Vương viên ngoại có hai gái Thúy Kiều và Thúy Vân rất đẹp. Nhân tiết thanh minh, Kim Trọng gặp Kiều, cả hai "tình trong như đã, mặt ngoài còn e ". Kim Trọng liền mượn cớ du học thuê nhà cạnh vườn họ Vương. Kiều và Kim Trọng có dịp hội ngộ, trao tặng thoa và quạt làm tin.
            Cha mẹ và cả nhà về quê ngoại, Kiều cáo bệnh không đi, đêm sang nhà Kim Trọng, cùng thề ước sẽ lấy nhau. Bất ngờ Kim Trọng phải về Liêu Dương phục tang. Trong lúc ấy, nhà họ Vương mắc nạn. Kiều quyết hy sinh bán mình cho Mã Giám Sinh để có tiền chuộc cha, rồi nhờ em là Thúy Vân thay nàng đáp tình Kim Trọng. 
Mã Giám Sinh lừa Kiều đưa vào lầu xanh. Kiều không chịu, bị Tú Bà đánh đập, nàng rút dao tự tử nhưng không chết. Tú Bà lo thuốc men, hứa gả chồng cho nàng. Kiều mắc mưu Sở Khanh dẫn đi trốn, bị Tú Bà bắt lại đánh đòn tàn nhẫn, cuối cùng nàng phải chịu tiếp khách.
Thúc Sinh đã có vợ là Hoạn Thư, con quan Lại bộ, nhưng chàng lấy cớ theo cha kinh doanh, để đi xa vợ cho được tự do ăn chơi. Thúc Sinh đến lầu xanh gặp Kiều, nghe nàng đàn và họa thơ, thì say mê, bỏ tiền chuộc ra. Thúc ông biết con trai ăn ở với một gái giang hồ liền làm đơn kiện. Quan phủ xử phạt Kiều phải chọn hai điều: "Một là cứ phép gia hình/Một là lại cứ lầu xanh phó về". Kiều xin chịu "gia hình" bị đánh roi, nhất quyết không thuận trở về lầu xanh. Thúc Sinh thấy Kiều bị đòn tơi tả, động lòng khóc rằng: "Kiều đã nhiều lần khuyên chàng phải về xin phép cha và vợ cả, vì chàng không chịu nghe  nên mới xảy ra oan khốc này!" Quan phủ hỏi lại nguồn cơn, rồi khen rằng: "Trăng hoa song cũng thị phi biết điều!" Lại nghe Kiều có ăn học, nên bảo làm một bài thơ vịnh cái gông mà Kiều đang mang ở cổ. Kiều tuân lệnh, làm xong trình lên, phủ đường khen hay và khuyên cha Thúc Sinh: "Ngoài thì là lý, song trong là tình", rồi truyền cho phép Thúc Sinh cưới Kiều làm bé. Thương vì nết, trọng vì tài của Kiều, Thúc ông chấp thuận.  
Vợ Thúc Sinh là Hoạn Thư, vốn con nhà quan, phong cách lịch sự, khôn ngoan:
                        Ở ăn thì  nết cũng hay,
                        Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.
            Nàng ứng xử khéo léo, đúng khuôn phép, nhưng khi cần ra tay đối phó, nàng cũng  thừa đủ mưu chước, thủ đoạn để làm cho ra lẽ mới thôi.
            Thúc Sinh vắng nhà đã một năm. Trong thời gian ấy, nghe được tin chồng lấy Kiều, miệng người đã lắm, tin nhà thì  không, Hoạn Thư vẫn nhẫn nhịn, nhưng càng nhẫn nhịn, càng thấy căm tức, đau khổ. Nàng cho đó là trò trẻ con, làm sao Thúc Sinh có thể giấu được mãi. Nếu Thúc Sinh biết điều, xin phép, nàng cũng sẽ ưng thuận, để tỏ ra là một chính thất hiền đức, khoan dung.

Thế kẹt của Hoạn Thư

- Tuy vậy, là người khôn ngoan, hiểu biết, Hoạn Thư hẳn cũng thấy rằng mình hiện đang ở vào thế kẹt lớn: Cha Thúc Sinh và quan trên đã chính thức cho phép Thúc Sinh cưới Kiều rồi. May mà Thúc Sinh hèn nhát, quen thói sợ vợ, nên chưa dám nghĩ đến việc cùng cha đưa Kiều về nhà nàng. Nếu ở trường hợp ấy, nàng cũng khó mà từ chối.
Hoạn Thư lại còn bị một thế kẹt nữa là nàng không có con. Đó là một cớ trong "thất xuất" ngày xưa để người đàn ông ly dị vợ (không con, dâm đãng và biếng nhác, bất hiếu với cha mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông, có ác tật). Đã không con mà còn cản không cho chồng lấy vợ bé để có con thừa tự nhà chồng, là bất hiếu ("Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" : có ba điều bất hiếu với cha mẹ, mà điều lớn nhất là"vô hậu", không có con nối dòng). Rồi nếu sinh chuyện gây gổ, hành hung thì còn bị ghép vào tội ghen tuông trong "thất xuất" nữa.
            Cho nên, Hoạn Thư phải làm cách nào tránh không để cho ai có thể buộc mình vào các tội bất hiếu, ghen tuông bất lợi cho nàng. Điều đó cũng không khó khăn gì cho lắm, vì nàng vốn là con nhà nề nếp, có ghen cũng không dại gì ra mặt đánh ghen một cách lỗ mãng, đã trái với gia phong, mà còn rước tiếng ghen vào người, cho thiên hạ cười chê. Điều khó, là Hoạn Thư phải làm sao cho Thúc Sinh phải tiếp tục giấu.    
            Làm cho Thúc Sinh tiếp tục giấu, tức là chàng không mở miệng xin lấy Kiều, Hoạn Thư sẽ có thời gian dùng tình cảm lôi kéo chồng, làm cho chồng quên Kiều mà trở lại với nàng.

Giải pháp tình cảm

- Về phần mình, Hoạn Thư cũng giấu không cho ai biết là nàng đã biết việc Thúc Sinh lấy Kiều. Trái lại, nàng cố làm cho mọi người tưởng nàng đã triệt để tin vào lòng thủy chung của Thúc Sinh. Thủ hạ đứa nào báo tin Thúc Sinh có vợ bé, đều bị Hoạn Thư sai vả miệng bẻ răng. Sau một năm, theo lời Kiều khuyên, Thúc Sinh về nhà, định bụng xin phép cưới Kiều. Hoạn Thư dư biết, song không gây gổ, giận dữ, hay tra gạn gì, mà vẫn một mực vui vẻ, chiều chuộng, âu yếm, tỏ ra tin yêu, quí trọng chồng. Nàng còn cho Thúc Sinh biết ở nhà thiên hạ xấu miệng dèm pha chàng có vợ bé, mà nàng đâu có tin những lời xuyên tạc vu vơ ấy. Nàng không để  cho bị lung lạc, làm tổn thương đến tình nghĩa vợ chồng, để phải mang tiếng xấu chung. Thúc Sinh thấy vợ không nghi ngờ gì, thì:
                        Nghĩ đà bưng kín miệng bình.
                        Nào ai có khảo mà mình lại xưng!
            Nhưng suốt một năm trời nàng tận lực dùng tình cảm giành lại chồng mà vẫn vô hiệu quả. Trái lại, Hoạn Thư nhận thấy Thúc Sinh càng ngày càng tưởng nhớ, yêu thương Kiều.
            Một năm trời nàng và Thúc Sinh sống với nhau có vẻ êm ấm, thuận hòa, đó chỉ là một cảnh "đồng sàng dị mộng", gần gũi xác thân mà không hảo hợp tâm hồn, ngàn lần sầu thảm, thê thiết, tủi thân hơn cả cảnh chồng lén đi khuất mắt ở riêng với vợ bé nào đó!

Giải pháp cứng rắn

- Nhu không được thì phải cương. Bây giờ phải cứng rắn đối phó thế nào làm  cho Thúc Sinh và Kiều phải xa nhau: Hoặc làm cho Kiều biến đi, hoặc làm Kiều tự ý bỏ đi.

            1- Làm cho biến đi

tức là làm cho mất tích, không tìm ra được, hay "thủ tiêu" (ám sát) như trong cổ tích "Vợ hai ghen ngược vợ cả" sau đây:
            "Xưa có một người lấy hai vợ. Hai người ngày nào cũng cãi nhau, đánh nhau, chồng không sao chịu được, cho mỗi người ở riêng một nhà, nhưng không cách xa nhau mấy. Có một thời gian, người chồng đi buôn bè vắng, vợ cả nghe thấy vợ hai ở bên nhà nghêu ngao hát rằng: "Chồng chung, chồng chạ, ai khéo hầu hạ, thì được chồng riêng! Chi mà sợ, chi mà kiêng!" Vợ cả biết nó gây sự với mình, tuy tức giận như vẫn làm thinh không nói năng gì.
            Hôm sau về nhà kể chuyện cho mẹ, cho em nghe. Mẹ khuyên: "Một sự nhịn là chín sự lành. Con đừng đối đáp nó làm gì. Đợi chồng con về sẽ hay!" Em gái cũng bảo rằng: "Cần chi phải để tâm. Người ta thường nói: Dù anh năm bảy nàng hầu, Em đây cũng cứ ngồi đầu chính thê". Vợ cả nghe mẹ, em nói như thế, nên không gây gổ gì với vợ hai.
            "Không ngờ vợ hai lại thuê côn đồ bắt vợ cả đem đi giết chết, chôn một nơi, rồi sẵn có thây chết trôi sông, chúng lôi bỏ vào nhà vợ cả phóng lửa đốt cháy. Sau  chồng về, tưởng vợ cả bị chết vì nhà cháy, rất thương xót, không nghi ngờ gì.
            "Một hôm ngồi trong hiên trông ra, vợ hai đang giặt áo quần ngoài  ao, bỗng có con xanh xanh bay đến đậu trên cây hót to lên: 
                        Phơi áo chồng tao thì phơi trên sào,
                        Đừng phơi hàng rào, tao cào mặt ra.
            "Người chồng nghe phảng phất như tiếng vợ cả xưa, liền đến gốc cây, rũ tay áo ra nói rằng:
                        Xanh xanh kia hỡi xanh xanh!
                        Có phải vợ anh, chui vào tay áo!
            "Thì quả nhiên chim xanh xanh bay vào trong tay áo thật, rồi một chốc biến đâu mất. Người chồng nghi ngờ, đem vợ hai ra tra khảo. Vợ hai phải thú tội, rồi sợ quá, đến đêm ra đâm đầu xuống ao tự tử." (1)
            Nhưng Hoạn Thư không giết Kiều như ở cổ tích nầy, nhưng...

            2- Làm cho Kiều tự ý bỏ đi,

 là chủ đích trọng yếu của Hoạn Thư. Trong kế hoạch nầy, đoạn đầu, (phải chăng do một trùng hợp nào?) lại giống như cốt truyện trong cổ tích trên, nhưng khác nhau là sau khi bắt cóc xong, nàng không giết Kiều mà tìm cách làm cho Kiều và Thúc Sinh phải bị nhục nhã, ê chề cho hả dạ trước đã:
                        Làm cho nhìn chẳng được nhau
                        Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên
                        Làm cho trông thấy nhãn tiền
                        Cho người thăm ván bán thuyền biết tay!
            Nàng mớm ý cho Thúc Sinh nên về Lâm Tri thăm cha cho phải đạo làm con. Khi Thúc Sinh vừa ra khỏi nhà, Hoạn Thư liền về bàn với mẹ sai hai tên Khuyển và Ưng đi đường tắt đến bắt cóc Kiều. Xong, đốt nhà, ném một thây chết vô chủ vào lửa để phi tang, xông thuốc mê cho Kiều ngất đi, nhưng không đem Kiều về nhà Hoạn Thư ngay cho khỏi bị lộ, mà đem về nhà mẹ nàng.
            Khi Kiều tỉnh dậy, mẹ của Hoạn Thư tra gạn lý lịch, Kiều vừa khai vốn là con nhà khá giả... thì bà liền cắt lời, quát mắng Kiều là đồ "trốn chúa lộn chồng" mà đến đây còn phách lối, và sai đánh 30 gậy để cho "biết tay một lần", rồi đổi tên Kiều ra "Hoa Nô" (đứa ở gái), ghép vào hàng tôi tớ trong nhà. Mụ quản gia thương tình thuốc men, an ủi và dặn Kiều rằng:
                        Ở đây tai vách mạch rừng,
                        Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi!
            Mấy ngày sau, Hoạn Thư đến thăm mẹ, nói cần một nữ tỳ. Bà mẹ sai Hoa Nô qua nhà Hoạn Thư giúp việc. Một hôm, Hoạn Thư hỏi Kiều nghề chơi biết được môn gì? Kiều thưa biết chơi hồ cầm. Nàng đưa đàn cho Kiều gảy. Nghe tiếng đàn:        
                        Nỉ non, thanh thót, dễ say lòng người!
                        Tiểu thư xem cũng thương tài,
                        Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
            Bản Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử (2) cũng kể như vậy, nhưng nói rõ hơn là "Tiểu thư nghe xong tỏ ý vui mừng, bảo ngươi đã giỏi ngón đàn, vậy thì từ đây về sau cứ ở bên ta, để lúc thư nhàn giúp thêm cảm hứng, khỏi phải ở lẫn trong đám tôi đòi như trước. Kiều ngỏ lời cảm tạ tiểu thư có lòng cất nhắc, từ hôm ấy, ngày đêm được ở bên cạnh tiểu thư, nhờ có cung đàn cũng tạm bớt được nỗi bất bình".
            Thúc Sinh khi về thăm cha, thấy Kiều bị thiệt mạng vì nhà cháy, buồn rầu, than khóc một thời gian, rồi trở về quê. Hoạn Thư vồn vã đón Thúc Sinh vào nhà. Vợ chồng hàn huyên xong, Hoạn Thư cho gọi Hoa Nô ra chào ông chủ. Kiều sửng sốt, không ngờ đây là Thúc Sinh, biết ngay mình đã bị sa vào tròng rồi. Sực nhớ đến lời dặn của mụ quản gia, Kiều đành phải cúi đầu quì xuống thi lễ. Thúc Sinh chợt nhìn thấy Kiều thì phách lạc hồn xiêu, thấy mình đã bị mắc mưu Hoạn Thư, biết làm sao mà cứu nhau được, quá xúc động nước mắt tuôn ra tràn trề.
            Hoạn Thư gạn hỏi:
            - Mới về mà chàng có việc gì phải động lòng như thế?
            Thúc Sinh dối rằng:
            - Vì mẹ mất sắp hết tang, bỗng nhớ lại thân mẫu ngày trước mà ứa lệ.
            Hoạn Thư rằng: Nếu quả những giọt nước mắt  của chàng vì thương thân mẫu nên mới trào ra, thực cũng đáng khen là bậc hiếu tử! Vậy thiếp xin bày tiệc rượu "tẩy trần" để chàng giải khuây (tiệc mừng "rửa bụi" cho người đi đường xa đến thăm).
Rồi :           Vợ chồng chén tạc chén thù,
                        Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi
                        Bắt khoan, bắt nhặt đến lời,
                        Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay.
Thúc Sinh :            ...Lại  càng như dại, như ngây,
                        Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
                        Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười,
                        Cáo say, chàng đã tính bài lảng ra.

            Thúc Sinh thấy không sao chịu nổi, muốn xô bàn rượu mà ôm lấy Kiều để khóc rống lên, nhưng... sợ vợ, nên không dám. Hoạn Thư thì cứ ngọt ngào mời mọc, mà chàng thì một mực cứ chối từ. Hoạn Thư liền thét bảo Kiều:
                        Khuyên chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!
            Thúc Sinh rụng rời chân tay, đành phải gắng uống cho hết một chén to đầy rượu. Tiệc chưa xong, Hoạn Thư đã bày ra trò khác: bảo Kiều đem đàn ra gảy cho Thúc Sinh nghe:
                        Bốn giây như khóc, như than,
                        Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
                        Cùng trong một tiếng tơ đồng,
                        Người ngoài cười nụ,
                        Người trong khóc thầm!
            Hoạn Thư lại quát mắng:
            - Hoa Nô! Tiệc vui mà ngươi lại đàn bài đoạn trường. Sao chẳng biết ý tứ gì? Làm cho ông buồn, tội ngươi khó tha!
            Thúc Sinh kinh hãi sợ Kiều bị hành hạ, vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua... Tấn bi hài kịch kéo dài mãi đến canh ba:
                        Tiểu thư nhìn mặt, dường đà cam tâm,
                        Lòng riêng khấp khởi mừng thầm :
                        "Vui nầy đã bõ đau ngầm xưa nay!".
            Hoạn Thư đau khổ suốt hai năm trời, nay chỉ đứng đạo diễn tấn bi hài kịch nầy chưa trọn một đêm mà đã hả lòng. Nhưng nàng lại thấy rằng để Thúc Sinh và Kiều ở gần nhau mãi cũng rắc rối. Phải làm thế nào cho Kiều tự ý bỏ đi, không đợi nàng mở miệng xua đuổi.
            Thế rồi, thường thấy đôi mắt Kiều sưng và đầy nước mắt, Hoạn Thư bảo Thúc Sinh tra khảo vì nguồn cơn gì ? Kiều viết tờ khai, đại ý nói quê nàng ở Bắc kinh, vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào thanh lâu, có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng bị bắt đưa vào cửa nhà quan... buồn khổ, mong được vào chùa tu cho nhẹ nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn Thư:
                        Dường có ngẩn ngơ chút tình.
                        Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương!
                        Ví chăng có số giàu sang,
                        Giá nầy dẫu đúc nhà vàng cũng nên.
                        Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
                        Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!
            Hoạn Thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Ăm các sau vườn để chép kinh.
           
            Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử, cũng kể y như thế, song đầy đủ chi tiết hơn: "Hôm sau, Thúc Sinh cùng Hoạn Thư tắm gội trai giới, cùng lên kiệu để tiễn Thúy Kiều vào Quan Âm các. Nàng toan thi hành đại lễ (bái phục), tiểu thư rằng: "Bây giờ ngươi đã là hạng thượng nhân (tu đạo), chép kinh thay ta để tròn ý nguyện, tức là đệ tử của Phật, không cần thi hành đại lễ ấy nữa". Hoạn Thư khấn rằng: "Trước kia đã hứa sao lục bộ Hoa Nghiêm kinh, nay xin..." Vừa khấn đến hai tiếng trên, thì tiểu thư bỗng nhiên ngừng lại, quay hỏi Thúc Sinh: "Trước đức Bồ Tát mà nói hoa nô (đứa ở gái) chép thay, há chẳng khinh nhờn quyển kinh đó sao?" Thúc Sinh đáp: "Nếu nói về danh phận người chép kinh, thì nên xưng là cúng dạng mới phải." Hoạn Thư nói: "Nghĩ nên thay cho nàng một đạo hiệu gì?"  Thúc Sinh nhìn trên biển treo thấy có hai chữ "Trạc Tuyền" bèn bảo vợ: "Thôi lấy hai chữ ấy đặt đạo hiệu cho nàng". Hoạn Thư khấn tiếp: "Nguyên trước đệ tử hứa chép bộ Hoa Nghiêm kinh, nay đặc biệt trao cho cúng dạng Trạc Tuyền, một tay sao lục, hôm nào hoàn thành, xin tu bổ công đức". Khấn xong Hoạn Thư truyền bảo hai nữ tỳ Xuân Hoa, Thu Nguyệt rằng: "Chép kinh không phải công việc tầm thường, hai ngươi phải siêng năng phục dịch, nếu có lỗi lầm, khi ta xét thấy, nhất định sẽ trị tội nặng." Hai thị nữ cúi đầu vâng dạ. Đoạn hai vợ chồng Thúc Sinh quay ra. Thúy Kiều toan đi tiễn chân. Hoạn Thư bảo: "Thôi, cứ ở lại chép kinh, đừng câu nệ lễ nghi lai vãng." (3)

Rồi Hoạn Thư tạo hoàn cảnh cho Kiều bỏ trốn. Nàng tuyên bố về thăm mẹ. Thúc Sinh tưởng thật, lén đến chùa cùng Kiều kể lể, than khóc dông dài. Kiều hỏi có cách gì cứu nàng không? Thúc Sinh chỉ trả lời:
                        Liệu mà xa chạy, cao bay,
                        Ái ân ta có ngần nầy mà thôi!
            Vừa lúc đó, Hoạn Thư bước vào, cười cười nói nói ngọt ngào, hỏi Thúc Sinh "mới ở chốn nào lại đây?" Thúc Sinh đáp đi dạo ngắm hoa, quá bước tạt vào coi viết kinh thế nào.
            Hoạn Thư liền cầm bản chép kinh xem:
                        Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
                        So vào với thiếp Lan-đình,  (4) nào thua!
                        Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
                        Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
            Hoạn Thư và Thúc Sinh ra về, Kiều hỏi hai tỳ nữ Hoạn Thư đến lúc nào? Đáp bà đến đã lâu, núp nghe câu chuyện giữa hai người từ đầu chí cuối. Kiều sợ hãi vô cùng, nghĩ rằng Hoạn Thư quả là một con người rất thâm độc, ở lâu chắc khó toàn tánh mạng. Câu "liệu mà xa chạy cao bay!" của Thúc Sinh lại hiện ra trong trí nàng. Phải, nàng phải tìm cách trốn thoát ra khỏi nơi nầy mới yên thân, nhưng đất khách quê người, ra đi tay không, ai mà chứa chấp? Buộc lòng nàng phải lấy trộm các đồ thờ bằng vàng, bạc trên bàn Phật đem theo hộ thân. Rồi thừa lúc hai nữ tỳ ngủ say, Kiều leo tường trốn đi. Nhưng Hoạn Thư bỏ qua, không cho người lùng bắt Kiều.
*
            Về đòn ghen  của Hoạn Thư, Nguyễn Du cho đó là một đòn: "nhẹ như bấc, nặng như chì " (câu 1879) và chỉ than một câu "Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen" (câu 1874). Còn những lời chỉ trích Hoạn Thư như "tinh ma, miệng hùm nọc rắn, nham hiểm giết người... " là của Kiều, nạn nhân của Hoạn Thư, chủ quan thốt ra. Rồi, vì thương Kiều, chúng ta hùa nhau lặp lại như thế mãi cho đến ngày nay. Có ai thông cảm được với nỗi đoạn trường của Hoạn Thư, một nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê hà khắc ngày xưa không?
            Có người chồng ngoại tình, địch thủ lại tài hoa, nhan sắc hơn mình, cha chồng và quan trên tác hợp, còn mình, vợ cả, lại bị luật lệ "thất xuất", lễ tục "phụ quyền" kiềm cặp, ràng buộc. Tưởng không có nỗi đau khổ, uất ức, nhục nhã nào hơn!
            Mà "đố kỵ, ghen tuông là một trong bản chất con người tư hữu và chiếm hữu. Tình yêu là thứ đòi hỏi chiếm hữu mãnh liệt nhất. Nhất là khi đã thành vợ chồng, vì được luật pháp cho phép. Thúc Sinh đã tự ý làm mất sự phối hiệp giữa chàng và Hoạn Thư, nên Hoạn Thư đòi lại, thế thôi! Dù thương Kiều bao nhiêu, ta cũng khó trách cứ Hoạn Thư về mặt nầy. Nàng quá nặng tay với Kiều chăng? Có thể, nhưng nếu không thế thì làm sao dứt được Thúc Sinh khỏi Kiều? " (5)
            Thật ra, từ khi Kiều bước chân vào nhà Hoạn Thư cho đến khi bỏ trốn, Hoạn Thư không hề đánh Kiều một roi nào. Cách hành hạ trả thù của Hoạn Thư không phải là làm cho Kiều phải đau đớn mà làm cho Kiều phải nhục nhã, và Thúc Sinh phải lộ chân tướng hèn nhát, bội bạc ra: 
            Liệu mà xa chạy cao bay,
            Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Khiến cho tình nghĩa giữa Thúc Sinh và Kiều ắt phải bị tan vỡ từ đây.
           
            Con người Hoạn Thư thiện ác thế nào? Một buổi tối làm cho Kiều và Thúc Sinh phải ê chề nhục nhã, Hoạn Thư đã hả lòng. Từ đó, nàng hòa hoãn hơn. Hai lần nàng nói với Kiều, ngay trước mặt Thúc Sinh, rằng nàng trọng tài, quí nết, cùng xót thương cho số phận truân chuyên của Kiều. Điều nầy, có kẻ cho là giả dối, nhưng riêng chúng tôi, thì thấy rằng Hoạn Thư đã có phần thành thật, vì nàng đâu có bắt buộc phải nói như thế để làm gì? Nếu không phải là để an ủi, đem lại cho Kiều một ít tự tin vào giá trị của mình đã bị chà đạp, mất mát!
            Thông cảm với nỗi khổ tâm của kẻ tình địch, phải là người có từ tâm và tri kỷ tri bỉ, mới có thể ứng xử như thế được. Xưa Hoàn Ôn đi đánh Hung Nô, đem về một công nương vùng ấy làm vợ hầu. Vợ cả ghen tìm đến tận nhà để hành hung. Nhưng vừa bước vào, thấy vợ hầu của chồng nhan sắc tuyệt trần, nhất là phong cách cung khiêm, lịch sự, dịu dàng, liền than rằng: "Con người như thế nầy, ta thấy còn phải mê thay, trách gì lão gia nhà ta!"
            Hoạn Thư có hiểm ác không? Kiều trộm đồ trốn đi, nàng có thể bắt để quan trên gia hình, tù tội. Sau, Kiều có ra tù, nàng có quyền không cho chồng lấy Kiều, vì  Kiều đã trộm cắp, ("thất xuất" điều 5). Nhưng Hoạn Thư có làm như thế đâu?
            Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là "chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!...Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai ?", nhưng đặc biệt  Hoạn Thư ứng xử "ngoài thì là lý, song trong là tình ", có nhu mà có cương, có thù ghét mà cũng có xót thương, có cột mà cũng có mở, nặng tay đó nhưng vẫn giữ được "cái nhân hậu", chớ không "cạn tàu ráo máng", đúng theo bản tính trung hòa hằng hữu của con người Việt Nam.
            Đòn ghen của Hoạn Thư là một tấn bi hài chống chế độ đa thê, nhiều giá trị kịch tính. Tình địch trực diện biết rõ lai lịch nhau, mà lại đứng vào những cương vị ngụy tạo để ứng xử, đối đáp "người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm".
            Đây cũng là một đoạn văn nhiều giá trị thẩm mỹ nghệ thuật nhất nhì trong Đoạn Trường Tân Thanh, đáng được nghiên cứu thấu đáo hơn. Chúng ta thương những nỗi đoạn trường của Kiều, nhưng sao lại quên được những nỗi đau khổ, nhục nhã của Hoạn Thư, một nạn nhân cũng như muôn vàn nạn nhân khác, của chế độ đa thê hà khắc phi nhân.
--------------------

CHÚ  THÍCH

(1)- Nguyễn Văn Ngọc, Truyện cổ nước Nam, Hà Nội 1932, t. 1, tr. 51.
(2)-  Phạm Đăng Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Hà Nội, 1991, tr. 300, 301 - trình bày Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Tử (Nhân), hồi 14, (Nguyễn Đình Diệm dịch).
(3)-  Phạm Đăng Quế, s.đ.d., hồi 14.
(4)- Lan-đình: xưa Vương Hy Chi, đời Tấn, viết tại Lan-đình bài tựa  tập thơ, chữ rất đẹp, đời  sau lấy làm mẫu, gọi  là chữ "Lan-đình".
(5)- Nguyễn Thùy & Trần Minh Xuân, Đoạn Trường Tân Thanh, Tiếng Vui Trong Lời Buồn, Mékong Tỵ Nạn, CA. H.K., 1983, tr.158-160.

------------------------------------------------------------------------- 
Phụ bản: Trích đoạn trong Truyện Kiều:

1705. Nước trôi hoa rụng đã yên,
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
Buồm cao lèo thẳng cánh suyền,

1710. Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
Dỡ đò lên trước sảnh đường,
Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
Vực nàng tạm xuống môn phòng,
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.

1715. Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai,
Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
A hoàn trên dưới giục mau,

1720. Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
Ngước trông tòa rộng dãy dài,
Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên.
Ban ngày sáp thắp hai bên,
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà.

1725. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
Bất tình nổi trận mây mưa,
Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân!
Con này chẳng phải thiện nhân,

1730. Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
Ra tuồng mèo mả gà đồng,
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
Đã đem mình bán cửa tao,
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.

1735. Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
A hoàn trên dưới dạ ran,
Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
Trúc côn ra sức đập vào,

1740. Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
Xót thay đào lý một cành,
Một phen mưa gió tan tành một phen.
Hoa nô truyền dạy đổi tên,
Buồng the dạy ép vào phiên thị tì.

1745. Ra vào theo lũ thanh y,
Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
Quản gia có một mụ nào,
Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
Khi chè chén khi thuốc thang,

1750. Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
Dạy rằng: May rủi đã đành,
Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay.
Cũng là oan nghiệp chi đây,
Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.

1755. Ở đây tai vách mạch rừng,
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
Con ong cái kiến kêu gì được oan?
Nàng càng giọt ngọc như chan,

1760. Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
Phong trần kiếp chịu đã đầy,
Lầm than lại có thứ này bằng hai.
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.

1765. Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
Những là nương náu qua thì,
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
Mẹ con trò chuyện lân la,

1770. Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu.

1775. Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
Phải đêm êm ả chiều trời,
Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày.
Lĩnh lời nàng mới lựa dây,

1780. Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
Cửa người đày đọa chút thân,
Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.

1785. Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau.
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.
Lần lần tháng trọn ngày qua,

1790. Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Lâm Tri từ thuở uyên bay,
Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
Mày ai trăng mới in ngần,
Phần thừa hương cũ bội phần xót xa.

1795. Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương,

1800. Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
Tiểu thư đón cửa giãi giề,
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
Nhà hương cao cuốn bức là,
Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.

1805. Bước ra một bước một dừng,
Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải chăng nắng quáng đèn lòa,
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bây giờ tình mới rõ tình,

1810. Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
Chước đâu có chước lạ đời?
Người đâu mà lại có người tinh ma?
Rõ ràng thật lứa đôi ta,
Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.

1815. Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Bây giờ đất thấp trời cao,
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,

1820. Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
Sợ uy dám chẳng vâng lời,
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
Sinh đà phách lạc hồn siêu:
Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?

1825. Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời,
Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:

1830. Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu.

1835. Vợ chồng chén tạc chén thù,
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi.
Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
Sinh càng như dại như ngây,

1840. Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.

1845. Sinh càng nát ruột tan hồn,
Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay.
Tiểu thư cười nói tỉnh say,
Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,

1850. Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
Nàng đà tán hoán tê mê,
Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.

1855. Cùng chung một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm.
Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
Tiểu thư lại thét lấy nàng:

1860. Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi\?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.

1865. Giọt rồng canh đã điểm ba,
Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm.
Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
Sinh thì gan héo ruột đầy,

1870. Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Người vào chung gối loan phòng,
Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
Bây giờ mới rõ tăm hơi,
Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!

1875. Chước đâu rẽ thúy chia uyên,
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
Bây giờ một vực một trời,
Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
Nhẹ như bấc nặng như chì,

1880. Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
Một mình âm ỉ đêm chày,
Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.

1885. Sớm trưa hầu hạ đài doanh,
Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
Lựa lời nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:

1890. Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào,
Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng,
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.

1895. Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.
Diện tiền trình với Tiểu thư,
Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
Liền tay trao lại Thúc Sinh,

1900. Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!

1905. Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: ý trong tờ,

1910. Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không.
Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
Sẵn Quan âm các vườn ta,
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.

1915. Có cổ thụ, có sơn hồ,
Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
Tàng tàng trời mới bình minh,
Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường.
Đưa nàng đến trước Phật đường,

1920. Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia.
áo xanh đổi lấy cà sa,
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền.
Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà.

1925. Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
Nhân duyên đâu lại còn mong,
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
Phật tiền thảm lấp sầu vùi,

1930. Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,

1935. Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,
Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
Gác kinh viện sách đôi nơi,
Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
Những là ngậm thở nuốt than,

1940. Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà.
Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh:

1945. Đã cam chịu bạc với tình,
Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
Thấp cơ thua trí đàn bà,
Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
Vì ta cho lụy đến người,

1950. Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
Quản chi lên thác xuống ghềnh,
Cũng toan sống thác với tình cho xong.
Tông đường chút chửa cam lòng,
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.

1955. Thẹn mình đá nát vàng phai,
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào,
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
Chút thân quằn quại vũng lầy,

1960. Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa rào,
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
Xót vì cầm đã bén dây,
Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.

1965. Liệu bài mở cửa cho ra,
ấy là tình nặng ấy là ân sâu!
Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
Nữa khi giông tố phũ phàng,

1970. Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây.
Liệu mà xa chạy cao bay,
ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bâu giờ kẻ ngược người xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?

1975. Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ!
Cùng nhau kể lể sau xưa,
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
Mặt trông tay chẳng nỡ rời,

1980. Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
Cười cười, nói nói ngọt ngào,
Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?

1985. Dối quanh Sinh mới liệu lời:
Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

1990. Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!
Thiền trà cạn chén hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.

1995. Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
Rành rành kẽ tóc chân tơ,
Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,

2000. Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
Ngăn tôi đứng lại một bên,
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
Đàn bà thế ấy thấy âu một người!

2005. ấy mới gan ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời,
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này,

2010. Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
Thế mà im chẳng đãi đằng,
Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường,
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!

2015. Thân ta ta phải lo âu,
Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao bay,
Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!
Phận bèo bao quản nước sa,

2020. Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh.
Chỉn e quê khách một mình,
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân.

2025. Bên mình giắt để hộ thân,
Lần nghe canh đã một phần trống ba.
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
.............................................................
Chú thích: 
1709. Cảnh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
1715. Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ.
Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
1719. ả hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.
1722. Thiên quang trủng tể: Thiên quang là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
1724. Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
1731. Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả; gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
1735. Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
1739. Trúc côn: Gậy tre.
1741. Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
1744. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
1745. Thanh ly: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
1747. Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
1750. Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc.
Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
1752. Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
1753. Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
1755. Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
1761. Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
1765. Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
1774. Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
1778. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
1786. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.
1782. ý nói: Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.
1788. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).
1791. Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).
1793. Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.
1794. Câu này đại ý nói: Thuý Kiều không còn nữa. Thúc sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.
1797. Cố nhận: Người quen biết cũ. ở đây chỉ Thuý Kiều.
1799. Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. ở đây chỉ quê hương của Thúc sinh ở huyện Vô Tích.
1803. Nhà hương: Do chữ Hương khuê.
1816. Thành ngữ: Giết người không dao. ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.
1823. Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.
1830. Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.
1831. Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. ở đây chỉ thúc sinh vừa hết tang mẹ.
1832. Trắc dĩ: Kinh thi có câu Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ.
Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.
1833. Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.
1834. Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.
1835. Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách.
Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. ở đây nói vợ chồng Thúc sinh uống rượu và mời mọc nhau.
1836. Trì hồ: Bưng bầu rượu. ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc sinh uống.
1846. Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.
1856. Người ngoài là người ngoài cuộc, thi Hoạn thư: người trong là người trong cuộc chỉ Thúc sinh và Kiều.
1865. Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.
1866. Cam tậm: Thoả lòng, hả dạ.
1871. Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;
1875. Thuý: Chim chả. Uyên: Chim uyên ương. ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thuý Kiều.
1885. Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
1896. Thân cung: Cung khai, khai trình.
1897. Diện tiền: Trước mặt.
1910. Cửa không: Do chữ không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là "không" nên người ta gọi đạo Phật là "Không môn".
1913. Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.
1915. Cổ thụ: Cây lâu năm.
Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.
1917. Tàng tàng: Tang tảng sáng.
1918. Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.
1920. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâm và thân mà theo đạo Phật.
Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu.
Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
1921. áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc.
Cà sa: áo nhà sư mặc.
1922. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.
1924. Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.
1926. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát.
Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.
1927. Nhân duyên: Duyên vợ chồng. ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.
1930. Thủ tự: Chữ viết tay.
Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.
1931. Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thuỷ. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.
1932. Lửa lòng: do chữ tâm hoả, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra.
Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.
1937. Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều.
Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
1940. Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.
1944. áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.
1950. Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như "ngọc trắng" mà bị cát vùi dập.
1953. Tông đường: Nhà tổ tông. ở đây dùng với nghĩa: "nối dõi tông đường". ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
1957. Dông tố: Cơn mưa to gió lớn. ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.
1987. Bút pháp: Phép viết chữ.
1988. Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.
1991. Thiền trà: Nước trà của nhà chùa.
Hông mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.
1992. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.
2008. Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc" là một cách chơi chữ của tác giả.
2011. Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.
2014. Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả t rắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.
2018. Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.
2020. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.
2024. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét