Trang

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

"Mưa đỏ" và tám mốt ngày đêm

HG: Mình xem phim "Mưa Đỏ" rồi, sau đó đọc qua truyện cốt để xem đoạn này hay đoạn nọ là từ tác phẩm hay do đạo diễn là nhiều. Mình đọc nhảy cóc trong độ nửa giờ vì văn chương quá chán, nó chỉ là một kịch bản để tuyên truyền "chính nghĩa cách mạng" thì đúng hơn là một tiểu thuyết, nếu xét không phải chỉ ở tiêu chí độ dài ngắn của truyện... 

Ngoài đời cứ 100 người quen chắc số mình chia sẻ được về những vấn đề này không đếm trên một bàn tay... Nếu bằng lòng với việc bộ phim giúp nhiều đối tượng dân chúng có cảm xúc tầm điểm 8, 9 và tầm hiểu biết lịch sử thăng hạng từ số 0 lên số  5 thì cũng được (có hơn không). Nhưng nếu phải trừ điểm đi vì bộ phim cung cấp những hiểu biết sai lầm mà rất khó lại có dịp để bù đắp cho quảng đại quần chúng, thì còn được mấy điểm??? 

Bài dưới đây là góc độ của người cựu binh trên chiến trường, chưa bàn đến hội đàm Paris.

 Trịnh Hoà Bình - Cựu chiến binh Quảng Trị

(Đăng trên Tạp chí Một thế giới 6/9/2025) 

Từ những ngày đầu tiên của 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị cho đến khoảng 10.9.1972, các trận đánh ác liệt giằng co chỉ diễn ra ở các làng xã xung quanh ấy, chưa bao giờ trong lòng thành cổ!

Lời tòa soạn:

Những ngày này, khán giả Việt Nam đang được thưởng thức một tác phẩm điện ảnh đặc biệt hay về chiến tranh: Mưa đỏ. Bộ phim đã phản ánh một cách xuất sắc lát cắt "Thành cổ Quảng Trị" - một trong những trận đánh khốc liệt nhất lịch sử chiến tranh chống Mỹ. Mưa đỏ không chỉ cung cấp sự kiện mà còn tái hiện sinh động lịch sử bằng nghệ thuật, với các nhân vật, tính cách, tâm lý được khắc hoạ và thể hiện ấn tượng.

Mưa đỏ đã chứng minh sức hút bằng những kỷ lục phòng chiếu rất thuyết phục. Một tác phẩm thành công như vậy luôn luôn thu hút sự quan tâm góp ý của dư luận. Một Thế Giới xin giới thiệu bài viết từ một người rất đặc biệt: Ông Trịnh Hoà Bình, cựu chiến binh đã chiến đấu tại thị xã Quảng Trị, nhằm cung cấp một cái nhìn rộng hơn, rõ ràng hơn về sự kiện này.

Bài viết có chỉ ra những điểm còn khuyết thiếu trong Mưa đỏ, nhưng hoàn toàn không phủ nhận giá trị về lịch sử cũng như nghệ thuật của một trong những bộ phim xứng đáng là xuất sắc nhất của điện ảnh Việt Nam.

“Mưa đỏ & 81 ngày đêm”

Đánh giá chung của anh em cựu binh từng chiến đấu trong thành cổ Quảng Trị năm 1972, thì Mưa đỏ là một bộ phim đáng để xem dù rằng còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa đúng với sự thật lịch sử. Nhưng chúng ta sẽ phải đánh giá Mưa đỏ dưới hai góc nhìn: Phim truyện và Phim lịch sử.

540497778_2357812884613402_5221088238727019375_n.jpg
Ban chỉ huy trung đoàn 48 tại căn hầm trong dinh Tỉnh trưởng, thị xã Quảng Trị. Chữ viết là của cụ Lê Quang Thuý, trung đoàn trưởng e48. Sau này là Chỉ huy trưởng của lực lượng hỗn hợp bảo vệ thị xã Quảng Trị năm 1972 - Ảnh do chị Lê Thu Hiền, con gái cụ Lê Quang Thúy cung cấp

Dưới góc độ Phim truyệnMưa đỏ đã truyền tải được tính khốc liệt, tính nhân văn, sự tàn nhẫn của phận người, sự cao cả và đớn hèn, tình yêu và dục vọng… Đó là một câu chuyện có cái kết mở với hình ảnh hai bà mẹ cùng chung một dòng sông, gợi đến một sự hòa hợp dân tộc mà bao nhiêu năm nay chúng ta vẫn tìm kiếm. Và cùng với hòa hợp dân tộc là khát vọng hòa bình vĩnh viễn của một đất nước đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh.

Dưới góc độ là Phim truyện, bộ phim đã hoàn thành sứ mệnh của mình, truyền tải được những điều tác giả và đạo diễn muốn nói, đưa khán giả đến với một lát cắt của cuộc chiến 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng Trị mà rất nhiều người chưa từng biết.

Nhưng doanh thu phòng vé cao ngất ngưởng chưa hẳn là thành công của một bộ phim. Nhất là với một bộ phim có tính lịch sử.

Dưới góc độ là Phim lịch sử, tôi đánh giá Mưa đỏ chưa đạt yêu cầu. Đừng nói vì thời gian gấp gáp quá. Bởi hạn mức thời gian là do chúng ta tạo ra. Đừng nói vì kinh phí hạn hẹp, bởi có những điều không phải do kinh phí. Cũng đừng nói “Nữ đạo diễn làm được phim thế này là hay rồi”. Nói như vậy là bao biện và có hàm ý phân biệt giới tính.

541799350_2357829601278397_6014241551393918362_n.jpg
Một góc thành cổ Quảng Trị năm 1972.

Như tôi đã từng viết “những người chưa từng trải qua chiến trận, chưa từng qua chiến tranh, họ đến xem vì tò mò, vì tự hào dân tộc, vì sự lôi kéo của đám đông và truyền thông. Đối tượng này có lẽ là lớn nhất, làm đầy các phòng vé. Họ chấp nhận tất cả những gì kịch bản và đạo diễn đưa ra, như một đứa trẻ, như một trang giấy trắng. Bởi vậy, mỗi chi tiết trong phim phải thật cẩn trọng. Không cứ Mưa đỏ, mà phim nào trên thế giới cũng vậy. Ví dụ như anh chàng Michail trong phim Bố Già mà đeo đồng hồ điện tử là không ổn rồi. Những người chưa từng biết đến trận chiến bảo vệ thị xã Quảng Trị 1972, những người như trang giấy trắng, sẽ phải đón nhận những thông tin sai lệch về trận chiến này, và họ sẽ lưu giữ mãi điều đó”.

Điều thứ nhất tôi muốn nói, cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị là bao gồm thành cổ Quảng Trị và các làng xã xung quanh. Đó là các địa danh: nhà thờ Trí Bưu, thánh địa La Vang, chợ Sải, làng Hạnh Hoa, ngã ba Long Hưng… mà thành cổ nằm ở trung tâm các địa danh ấy về phía Bắc, phía sau thành cổ là sông Thạch Hãn.

Từ những ngày đầu tiên của 81 ngày đêm bảo vệ thị xã Quảng Trị cho đến khoảng 10.9.1972, các trận đánh ác liệt giằng co chỉ diễn ra ở các làng xã xung quanh ấy, chưa bao giờ trong lòng thành cổ! Quân địch cũng từng muốn đặt chân lên thành cổ để tạo áp lực cho hội nghị tại Paris, nhưng không thể. Đêm 22 rạng sáng 23.7, một trung đội lính dù đã lẻn vào thành để tìm cách cắm cờ, nhưng đã bị tiêu diệt. Phải gần hai tháng sau, đến sáng ngày 15.9.1972, lực lượng Thuỷ quân Lục chiến với sự yểm trợ của pháo binh, xe tăng, máy bay mở một đợt tổng công kích vào khu vực trường Bồ Đề, từ đó tiến sát dinh Tỉnh trưởng tạo thế gọng kìm nhằm bao vây và tiêu diệt các lực lượng Quân giải phóng trong thành, thì cuộc chiến bên trong thành cổ mới diễn ra. Tại trường Bồ Đề, một tiểu đội Quân giải phóng đã hy sinh toàn bộ sau nhiều giờ chiến đấu. Chiều 15.9.1972, một số xe tăng của địch đã tiến sát đến bờ sông khu vực dinh Tỉnh trưởng, thậm chí một chiếc M48 còn dừng ngay trên nóc hầm khẩu đội 12 ly 7 của đại đội 16, trung đoàn 95. Chiếc xe tăng này sau đó bị ta bắn cháy, một chiếc khác gần dinh Tỉnh trưởng phải lùi lại phía sau vì trời cũng đã tối.

Trong phim Mưa đỏ, các trận đánh đều diễn ra trong lòng thành cổ từ những ngày đầu tiên. Và điều đó là sai cơ bản với lịch sử.

Trong cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, cần phải nhắc đến lực lượng không quân của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa. Toàn bộ bầu trời thuộc về họ. Giai đoạn đầu của chiến dịch, lực lượng phòng không của ta khá tốt, hạn chế được các cuộc ném bom. Một khẩu đội 12 ly 7 đã từng bắn cháy một máy bay trực thăng. Một khẩu đội 12 ly 7 khác bắn cháy một máy bay A.37. Nhưng càng về sau càng yếu do bị tiêu hao bởi pháo kích và bom.

Nhắc đến bầu trời Quảng Trị những ngày ấy, ai từng chiến đấu ở đó đều nhớ đến tiếng máy bay chỉ điểm OV.10 và L.19. Hết chiếc này đến chiếc kia thay nhau quần thảo lượn lờ nhòm ngó. Tiếng máy bay kêu o o rất sốt ruột. Chỉ một sự khác biệt của quân ta trên mặt đất là lập tức có pháo khói chỉ điểm. Và ngay sau viên pháo khói là máy bay A.37 từ đâu đó hiện ra nhào xuống ném bom. Một chiếc A.37 mang theo 4-6 quả bom. Mỗi lần bổ nhào chúng chỉ ném một quả. Tiếng rít khi bổ nhào rất kinh khủng, như xoáy vào tai vào óc người lính. Hết bom, chúng lại bắn đại bác 40 ly vào nơi nghi ngờ.

Không có bom B.52 rải thảm trong thị xã Quảng Trị cũng như thành cổ vì quân ta và quân địch luôn ở thế cài răng lược. Máy bay B.52 chỉ ném bên kia sông ở khu vực làng Nhan Biều và sân bay Ái Tử, nơi có bến vượt của quân ta. Và xa hơn là khu vực miền Tây Quảng Trị.

Quảng Trị năm 1972, nếu tự dưng không gian ắng đi tiếng máy bay F.4, tiếng máy bay OV.10 và L.19, thì có nghĩa là B52 sắp đến.

542029949_2357829611278396_1766671999798711393_n.jpg
Bản đồ tác chiến của lực lượng Thủy quân Lục chiến từ ngày 9.9.1972 đến ngày 16.9.1972. Trên đó có đánh dấu các mũi tấn công cụ thể.

Trong phim Mưa đỏ không tạo được cảnh máy bay chỉ điểm OV.10, L.19 và máy bay ném bom A.37. Một vài cảnh máy bay ném bom có lẽ được tạo bởi AI xem hơi gượng.

Một điều nữa là pháo kích của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Có nhiều loại đạn pháo khác nhau: pháo bầy sát thương trên mặt đất, đạn bắn tới giống như một trận mưa rào thật to, đầy chết chóc; pháo khoan phá công sự hầm chữ A, mà khi mới gặp chúng tôi cứ nghĩ nó là pháo xịt, vì để lại một lỗ tròn trên mặt đất; pháo chụp nổ trên không, cách mặt đất khoảng 15-20 m, bắn những chiếc đinh có cánh xuống dưới và chiếc đinh này có thể xuyên thủng một tấm tôn, loại này rất nguy hiểm với người đang không ở trong hầm.

Tuy vậy, các loại pháo này đều có thể tránh nếu biết cách. Với pháo bầy và pháo chụp, bao giờ cũng có một vài quả thử để tính toán phần tử bắn. Nếu có một cái hầm chữ A gần đó thì nên chui ngay vào để tránh. Hoặc phải tìm cách chạy thật nhanh ra khỏi khu vực chuẩn bị có pháo kích, vì khi đã có tiếng depar đầu nòng thì bạn không còn thời gian để tránh nữa. Cái kinh nghiệm “hai viên đạn không bao giờ rơi chồng vào nhau” của thế chiến 1 không áp dụng được ở đây. Vì pháo bầy là do hàng chục khẩu pháo bắn một lúc, và mỗi vết đạn có thể là do vài viên đạn nổ ở đó.

Phải công nhận rằng pháo binh của VNCH rất giỏi. Họ bắn rất chính xác, gây nhiều thương vong cho bộ đội ta. Những ngày lính VNCH không đánh, thì thường là có pháo kích. Pháo bắn dai dẳng cả ngày. Đầu tiên là pháo bầy, khiến quân ta phải chui xuống hầm. Tiếp đó là pháo khoan, nhằm phá hầm, quân ta lại phải bỏ hầm để chạy ra hào ngồi. Quả pháo khoan khi trúng hầm sẽ khiến căn hầm bị phá huỷ. Anh bạn Sâm “mèo” phố Lò Đúc của tôi ở đại đội 7 đã lĩnh trọn một quả pháo khoan như vậy. Thân hình anh tan ra thành từng mảnh. Chúng tôi vét phần xương thịt còn giắt trên các vì kèo của căn hầm chữ A, được một ca thịt đem chôn. Để rồi ngày hôm sau pháo kích lại bắn trúng, và ca thịt ấy bay đi đâu mất.

Với pháo bầy, pháo khoan hay pháo chụp thì còn có thời gian để tìm cách tránh, chứ với pháo tăng thì không. Khi một chiếc xe tăng bắn, tiếng nổ đầu nòng và điểm chạm nổ của viên đạn gần như là tức thời. Gia tốc của đạn là 1200 m/ giây. Khoảng cách gần cùng gia tốc của viên đạn không cho phép người lính kịp né tránh. Nếu viên đạn hướng trúng vào ta, thì ngay cả một tiếng kêu “mẹ ơi” cũng không kịp thốt ra.

Trong phim Mưa đỏ tôi chưa thấy cảnh pháo bầy, hoặc pháo khoan. Mà đó lại là một đặc trưng của chiến trường thị xã Quảng Trị. Và đặc biệt chưa mô tả sự choáng do một quả pháo tăng gây ra. Chúng ta mới thấy hình chiếc xe tăng gầm gừ, nhả đạn chớp loé đầu nòng pháo mà thôi. Giá như dựng được đoạn phim người lính choáng váng sau quả đạn pháo tăng nổ thì sẽ gây ấn tượng mạnh hơn cho người xem.

Một điều nữa là chiến hào và hầm chữ A. Chiến hào thường được đào sâu khoảng một mét, hoặc hơn một chút, rộng khoảng 7-80 phân. Không đào sâu quá, lúc cần nhảy lên sẽ rất khó. Còn đào rộng quá thì không có sức để đào. Đào hào xong thì đào hầm chữ A. Hầm chữ A được học tập theo kinh nghiệm của chiến tranh Triều Tiên 1950, gồm một cây đòn nóc dài thật vững, gác lên đó những thanh tre hoặc gỗ, lát thêm miếng ván hoặc liếp tre rồi đổ đất vào lèn kỹ. Hai cửa hầm chữ A là nhánh hào râu tôm thông ra ụ chiến đấu. Hầm chữ A để tránh bom pháo rất tốt. Tôi từng thấy một căn hầm chữ A sát một hố bom, trơ cả khung như xương sườn một con trâu mà không bị sập.

Trong thị xã Quảng Trị năm 1972, những chiếc hầm chữ A cùng các ụ chiến đấu được ngụy trang rất kỹ nhằm tránh sự phát hiện của máy bay chỉ điểm OV.10 hay L.19. Và cả xe tăng của địch nữa. Bất kỳ một mô đất nào nhô lên bất thường đều sẽ bị pháo dập cho tơi bời. Xe tăng địch cũng sẽ ưu tiên nhằm bắn vào các ụ đất mà nó nghi ngờ. Bởi vậy, các đoạn hầm hào của quân ta trong Mưa đỏ được đắp bởi các bao cát là sai cơ bản. Chưa nói đến các bao cát thời ấy chỉ đựng khoảng 20 kg thôi, chứ không phải loại to đùng 5-70 kg như trong phim. Chưa kể trong phim người ta còn kiếm được mấy tấm ghi lỗ để gác lên mái hầm. Ghi lỗ ấy vốn dùng để làm đường băng dã chiến, chỉ có ở khu vực sân bay, trong thành cổ không có loại này. Một cái hầm gác mấy tấm ghi lồ lộ thế, thì may được nửa ngày chứ đừng nói cả cuộc chiến.

Chiến dịch bảo vệ thị xã Quảng Trị là một chiến dịch phòng ngự. Mà đã phòng ngự thì ít di chuyển. Việc đeo cái tạp dề Bao-xe đựng băng đạn trong phòng ngự là không cần thiết. Vì các băng đạn được quân ta để rải rác trên vách hào, hết đạn là lấy được ngay. Vả lại, mỗi khẩu AK bao giờ cũng lắp hai băng đạn ngược đầu nhau. Một trận đánh đâu phải lúc nào cũng dùng hết 60 viên đạn? Với điểm xạ hai viên một, thì vừa chính xác, vừa tiết kiệm đạn, vừa tạo uy lực áp đảo đối phương. Thực tế, lính dù và sau này là lính Thủy quân lục chiến rất ngại những điểm xạ hai viên một của bộ đội ta. Nó thể hiện sự điềm tĩnh của người lính, thể hiện người bắn đã từng trải. Xem phim thấy tiểu đội trưởng Tạ là lính cựu mà không dùng hai băng AK cột ngược, hết đạn vẫn phải móc băng đạn mới trong tạp dề để thay thì buồn cười. Chi tiết đó giảm đi sự sáng tạo, kinh nghiệm của người lính Giải phóng quân. Lúc mới vào thị xã Quảng Trị, tôi cũng từng đeo tạp dề. Vì nghĩ rằng nó cũng giống như miếng áo giáp, che chở cho mình. Nhưng sau vài ngày thấy vướng, cần thay đạn rất khó. Nên bỏ. Lúc bỏ, thấy da bụng nhăn nheo vì mồ hôi, ở giữa có đám hắc lào to gần bằng bàn tay.

Các tiểu đoàn d4, d5, d6 của trung đoàn 95 và K3 Tam Đảo sau khi vượt sông ngày 22.7.1972 vào thị xã Quảng Trị thì lực lượng quân ta có 8 tiểu đoàn, trong đó trung đoàn 48 đã ở đó từ đầu chiến dịch.

540689800_2358570941204263_3138453219560432187_n.jpg
QUANG SƠN CÒN - QUẢNG TRỊ CÒN Lời thề giữ chốt của các chiến sỹ trung đoàn 48.

Trung đoàn 48 của sư đoàn 320 còn có tên là đoàn Quang Sơn , với lời thề “Quang Sơn còn - Thành cổ còn”!

Trong Mưa đỏ, đạo diễn và tác giả kịch bản đã nhét lời thề này vào K3 Tam Đảo “Tam Sơn còn- Thành cổ còn”. Vậy là sai rồi. Chưa kể, tiểu đoàn K3 Tam Đảo đến ngày 22.7.1972 mới vượt sông vào thị xã Quảng Trị, chứ không phải từ đầu chiến dịch.

Cuộc rút quân đêm 15.9.1972 là do sự quyết đoán của ban chỉ huy hỗn hợp lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị sau nhiều ngày phân tích thế Địch-Ta. Nên nhớ rằng mọi phương tiện thông tin liên lạc giữa thành cổ Quảng Trị với bờ Bắc đều đã bị cắt đứt từ trước đó nhiều ngày. Mãi đến chiều tối 15.9 khi có chỗ xe tăng địch nống sát đến bờ sông Thạch Hãn và sở chỉ huy, thì BCH mới ra quyết định này. Tất cả đều bơi để vượt sông, không có thuyền nào đón cả. Đơn giản vì không còn chiếc thuyền nào nữa, bị địch bắn chìm trước đó cả rồi. Các thương binh nặng thì đành để lại, vì không thể đưa qua sông. Một vài nhóm nhỏ ở xa, mất liên lạc nên cũng bị rớt lại. Ngày 16.9 địch tiếp tục tấn công, nhưng không dám tiến nhanh vì không biết quân ta đã rút. Các nhóm nhỏ bị rớt lại và một số anh em thương binh vẫn tiếp tục chiến đấu. Nhiều người trong số đó đã hy sinh hoặc bị bắt, thậm chí bị giết khi súng hết đạn. Đêm 16.9 vẫn còn một số anh em từ trong thành vượt ra. Chính họ đã kể cho chúng tôi những gì đã xảy ra trong ngày 16.9 khi lính Thủy quân lục chiến tràn ngập Cổ thành.

Một người bạn của tôi còn kể lại rằng chiều ngày 16.9, bạn anh ấy (là lính VNCH) đã dùng ca nô để vớt những người lính Giải phóng quân đang kiệt sức và bị dòng lũ trên sông Thạch Hãn cuốn đi…

Trong chiến tranh, sẽ có những sai sót và tổn thất khó tránh. Không tô hồng và dám nhìn thẳng vào sự thật sẽ làm chúng ta mạnh mẽ hơn.

Vậy Mưa đỏ có phải là một bộ phim đáng xem?

Vâng. Mưa đỏ là một bộ phim nên xem. Ít nhiều, nó đã phản ánh được cuộc chiến đấu Bảo vệ thị xã Quảng Trị năm 1972. Những điều tôi viết ở trên chỉ làm rõ thực tiễn chiến trường lúc đó để những ai chưa từng trải qua sẽ hiểu thêm về Lịch sử của 81 ngày đêm khốc liệt ấy.

--------------------------------------

PHẦN 2: 12/9/2025



Bài viết "Mưa đỏ và 81 ngày đêm" ông đăng trên Facebook được lan truyền rất nhiều. Ông nhận được các ý kiến thế nào?

Ông Trịnh Hòa Bình: Trước bài Mưa đỏ và 81 ngày đêm, tôi đã có một cái post ngắn chừng 200 chữ. Lúc đó chưa xem phim mà mới nhìn qua poster giới thiệu bộ phim, tôi nhận xét ngay: Có những chi tiết nhìn trên ảnh đã thấy chưa chính xác. Sau buổi sáng xem phim về, ngay buổi chiều tôi viết Mưa đỏ và 81 ngày đêm, viết rất nhanh, chỉ khoảng 2 tiếng là xong. Viết xong, tôi hỏi ý kiến anh Trần Ngọc Long, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 48 (tức đoàn Quang Sơn), năm nay đã 84 tuổi nhưng vẫn rất minh mẫn. Anh Long có điều chỉnh một vài chi tiết, như ngày Trung đoàn 48 vào thành, ngày Tiểu đoàn K3 Tam Đảo vào thành.

Về ý kiến nhận được thì có mấy hướng. Thứ nhất là những người có thể chưa chiến đấu bao giờ, họ bảo bây giờ đọc bài của bác mới biết như thế. Thứ hai là những người bảo phim làm như thế được rồi, nữ đạo diễn mà đạo diễn được phim như thế là được rồi. Với ý kiến này, tôi bảo ngay: Phim truyện dựa trên lịch sử thì phải bám lịch sử rồi phát triển lên, có lịch sử rồi mới hư cấu. Cũng có người không bằng lòng với ý tôi. Ý kiến nữa là các quân nhân đã chiến đấu ở Quảng Trị hoặc không ở Quảng Trị, thì hoàn toàn nhất trí với tôi.


- Ông có thể nói kỹ hơn những đánh giá của cá nhân về phim "Mưa đỏ"?

Ông Trịnh Hòa Bình: Về phim Mưa đỏ, tôi chia 2 phần, phần thứ nhất là phim truyện, thì tôi không đánh giá, vì không đủ kiến thức về phim ảnh để đánh giá hay dở. Mình chỉ nói phần mình biết, phần lịch sử.

Có mặt tại thị xã Quảng Trị thời gian này có tới 8 tiểu đoàn: 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 95, 3 tiểu đoàn của Trung đoàn 48 Sư đoàn 320, 2 tiểu đoàn của tỉnh đội Quảng Trị là K3 Tam Đảo và K8. Tiểu đoàn tôi vào ngày 22.7. Lúc bấy giờ đánh nhau to rồi. Đến hôm rút ra khỏi thành cổ (đêm 15.9), mặc dù bổ sung rất nhiều lần nhưng khi anh em tôi rút ra được đến Ba Lòng thì cả tiểu đoàn còn được khoảng 35 người. Cả tiểu đoàn.

Phần lớn thời gian của 81 ngày đêm là chiến đấu ở các khu vực, làng xã xung quanh Thành cổ, tức là bên ngoài thành. Thành cổ Quảng Trị là một khu hình vuông, phía sau là sông Thạch Hãn, 3 hướng còn lại là Bắc, Đông, Nam, là những chỗ giao tranh. Không đánh nhau ở trong Thành cổ, cho đến ngày thứ 81.

Cả thành cổ ấy, mỗi chiều hơn 500m, diện tích chừng 1/4 km² mà riêng quân ta đã tới 8 tiểu đoàn thì chỗ đâu mà nhét được. Và nếu chui hết vào đó thì chỉ cần một lượt B52 ném xuống là chết ráo! Nhiệm vụ của lực lượng bảo vệ thị xã Quảng Trị là phòng ngự không cho địch vào được Thành cổ. Nghĩa là đánh nhau ở xung quanh.





Ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã từng đến tận nơi và lệnh cho lực lượng dù là bằng giá nào cũng phải cắm được cờ, chiếm lại Thành cổ Quảng Trị vào ngày 12.7. Thực tế thì quá ngày đó, quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) vẫn không thể vào được. Ngày 12.7 có một trung đội lính dù luồn sâu vào để cố gắng trèo lên thành cắm cờ, có cả phóng viên đi theo quay phim, chụp ảnh muốn đưa lên báo chí và đưa ra Hội nghị Paris. Nhưng ta nắm được thông tin, nên khi họ vào thì ta đánh, họ không vào nổi. Bị ta đánh rát quá, họ gọi để máy bay để hỗ trợ. Nhưng hiệp đồng tác chiến của họ không được tốt, máy bay đến đáng lẽ là bổ nhào vào quân giải phóng thì lại bổ nhào vào đúng đơn vị dù đang cố tiến lên, làm cho trung đội ấy thương vong rất nhiều. Bản thân lính dù VNCH chưa bao giờ được “hưởng bom” vì quân giải phóng mình có bom đâu, nên bị máy bay ném bom trúng lưng thì họ rất sợ và thế là rút. Trận đó cũng vẫn ở ngoài Thành cổ.

Ngoài xem phim, ông có đọc tiểu thuyết "Mưa đỏ" của nhà văn Chu Lai chưa?

Ông Trịnh Hòa Bình: Tôi có đọc rồi, cách đây 8 năm. Năm 2017, đoàn cựu binh chúng tôi vào Quảng Trị nhân dịp 27.7, nhà văn Chu Lai có đi cùng và tặng tất cả anh em ở trong đoàn mỗi người một quyển Mưa đỏ. Anh em được tặng phấn khởi lắm, tôi cũng thế. Nhưng nhiều anh em bạn bè sau khi đọc được khoảng độ 2/3 thì thôi. Anh em bảo ông ấy hư cấu nhiều quá. Chẳng hạn như trong truyện có một nhân vật bị đuổi học vì là trai bao, rồi anh ấy đi bộ đội. Cái tình tiết này là không phải. Một là ở thời điểm những năm 70, cái từ “trai bao" ở miền Bắc không có. Thứ hai là dân ta khi đó, kể cả “nhà giàu” nói chung không có tiền, nên bảo bỏ tiền ra nuôi trai bao thì nó vô lý.

Tôi đọc tiểu thuyết đó đến giờ là 8 năm, cũng lâu quá rồi, nên không nhớ hết được toàn bộ. Nhưng có một điều, tất cả anh em cựu binh từng chiến đấu trận Thành cổ đều khẳng định đó là cuộc chiến đấu bảo vệ thị xã Quảng Trị, trong đó có Thành cổ, và không có một cuộc giao tranh nào giữa quân ta và quân địch bên trong Thành cổ. Không có. Ngay cả ban chỉ huy của lực lượng ta cũng không nằm trong Thành cổ, mà nằm bên ngoài, trong cái dinh tỉnh trưởng, sát bờ sông và cách Thành cổ vài trăm mét.

Trong bài ngắn đầu tiên của ông có chỉ ra khá nhiều chi tiết, như chuyện lính không đeo “tạp dề” (bao đạn trước ngực), hay là việc lính thường buộc 2 băng đạn AK ngược chiều để thay cho dễ, rồi chuyện công sự, chiến hào thực tế không hoành tráng như phim. Nhiều chi tiết nhỏ như vậy gợi lên một câu hỏi: Có lẽ nếu được sự trợ giúp từ những người có hiểu biết thực tế thì các bộ phim lịch sử sẽ tránh được nhiều sai sót, và đảm bảo tính chân thực hơn?

Ông Trịnh Hòa Bình: Tôi cho rằng đạo diễn của phim Mưa đỏ thực sự là chưa đi tìm hiểu cụ thể về cuộc chiến này nó như thế nào. Sai lầm thứ nhất là cho rằng chiến đấu xảy ra ở trong Thành cổ. Thứ hai là những hình ảnh ở trong bộ phim, những đạo cụ hay hầm hào không đúng thực tế. Không biết cái băng đạn buộc ngược đầu nhau xuất phát từ đâu, ai nghĩ ra, nhưng khi chúng tôi vào chiến đấu thì tất cả đều được học ngay bài đầu tiên. Ban đầu tôi đã từng đeo cái bao đạn, được 2 ngày thì tháo vứt đi mà khi vứt đi còn thấy da bụng bị ngấm nước nhăn nheo như hắc lào. Hãy nhớ chiến đấu ở đây là đánh phòng ngự, thường xuyên lăn lê bò toài. Đeo cái bao đạn rất vướng, rồi bùn đất bám vào, và lúc hết đạn mà rút cái băng đạn trong tạp dề ra là rất khó. Còn với 2 băng đạn buộc ngược đầu, chỉ cần rút ra, xoay đầu lại và lắp. Hai băng đạn có 60 viên, bắn một ngày không hết. Tôi chưa bao giờ bắn nhau một ngày hết 60 viên, hãn hữu lắm. Anh chỉ điểm xạ hai viên một, nhìn rõ địch mới bắn. 60 viên có thể được 30 điểm xạ, đủ đánh cả ngày.



Còn cái hào của chúng tôi, nó chỉ rộng tầm khoảng chừng 70 phân, và nó nông, chỉ lọt được người thôi. Hào này chạy một mình thì còn tạm được chứ hai người mà đối diện trong đó rất vướng. Chả có sức đâu mà đào được cái hào to như phim. Hào trong phim giống như một cái hào chống xe tăng của Thế chiến thứ nhất. Năm 1972 chúng tôi làm gì có cái hào ấy.

Chúng tôi chiến đấu ở trong thị xã, tức là trong đó có phố, có nhà cửa. Chúng tôi lợi dụng địa hình địa vật để tránh đạn, để chiến đấu. Chỗ nào cần đào hào mới đào, còn không thì chúng tôi nấp từ góc tường này sang góc tường nhà kia thôi. Và nếu có cũng đào ngắn.

Một hình ảnh nữa là trong phim thấy có dùng bao cát đắp công sự, trông đúng kiểu chiến lũy ngày xưa trong truyện Những người khốn khổ hay chiến lũy trong Cách mạng Pháp ấy. Chúng tôi không có bao cát. Cái bao cát ấy là của Mỹ, chứa được khoảng 20 ký đất thôi chứ không quá to. Quân ta làm gì có.

Vả lại khi ấy, trên trời hoàn toàn là của địch. Cái mà chúng tôi khó chịu nhất những khi không có tiếng súng là tiếng máy bay trinh sát OV10 hai thân và L19. OV10 có thể lượn nửa ngày ở trên, nhiều khi nó tắt máy mà lượn, nó quan sát rất rõ dưới đất. Chỉ bất kỳ một sự khác thường nào, lập tức nó gọi pháo bắn hoặc gọi máy bay bom ngay. Một cái hầm to có mấy cái bao cát như thế, chắc chắn ăn một phát pháo khói, hai đến ba giây sau một cái là bom rơi vào đầu rồi. Chi tiết bao cát trên phim là không thực tế.



Về mức độ khốc liệt, phần lớn khán giả xem trong phim đều nhận xét rằng chiến tranh quá đẫm máu. Nếu so sánh ở trong phim và bên ngoài thì thế nào?

Ông Trịnh Hòa Bình: Có những cái khác. Trong phim khán giả không thấy OV10, hay pháo bầy và pháo khoan. Khi phát hiện quân ta ở đâu đó, đối phương sẽ dùng cái gọi là pháo bầy. Pháo bầy là khoảng độ 10 - 20 khẩu pháo ở mấy căn cứ, liền một lúc bắn chụm lại. Bạn cứ cảm tưởng như là một trận mưa rào thật to, những hạt mưa rơi trên mặt đường, rồi tóe lên như thế nào, dày đặc như thế nào, thì những quả pháo nó nổ như vậy. Ai nằm trong phạm vi pháo bầy kiểu gì cũng thương vong.

Đối phó với pháo bầy thì chui vào hầm chữ A là an toàn. Nhưng khi đó họ dùng loại pháo thứ hai là pháo khoan. Nó na ná như quả bom mà Mỹ ném vào căn cứ hạt nhân của Iran gần đây vậy, chui sâu xuống dưới rồi nó mới nổ. Quả pháo ấy nổ âm dưới đất, nên ở trên mặt đất thì chúng tôi kệ.

Không phải cả ngày có pháo. Thường khi sắp vào trận, hoặc khi phát hiện quân ta thì phía địch sẽ pháo kích tơi bời. Họ bắn pháo rất chính xác. Trong khi pháo bắn như thế, quân ta ở trong hầm, thì địch hành tiến lên sát ta, lúc pháo ngưng một cái là bắt đầu xung phong. Bên mình cũng biết như thế, hết pháo là phải lên ngay.

Nói về mức độ ác liệt, có người bảo được 10%, có người bảo 30%. Tôi cho rằng so sánh không chính xác. Tôi thấy là cái mức độ ác liệt trong phim cũng ghê đấy chứ, không cần phải làm quá thêm nữa làm gì. Có khi bộ phim còn cần “mềm” đi chút nữa, đi vào chiều sâu hơn. Các cảnh bom đạn không cần quá nhiều, nhưng phải “chất” mới xứng với sự dữ dội thật sự của chiến tranh. Cảnh lính VNCH đốt tù binh là không đúng, họ không làm thế đâu. Qua đoạn này người xem có thể nghĩ lính VNCH rất dã man, hung bạo. Thực tế thì họ cũng là người Việt, sống nhân văn.


- Giả sử có một đạo diễn phim chiến tranh mời ông làm cố vấn về lịch sử chẳng hạn, ông có nhận lời không?

Ông Trịnh Hòa Bình: Tôi có thể tham gia và cố gắng hết sức bằng những gì tôi biết. Còn gọi là cố vấn, để chỉ ra nó phải thế này thế kia, tôi làm sẽ không chính xác. Dù sao thì tôi đã từng chiến đấu ở đó, nhưng thời gian mà tôi thực sự ở trong đó nó không nhiều. Trong 81 ngày đêm đấy thì tôi chỉ ở khoảng độ hơn 10 hôm của đoạn cuối cùng, khoảng từ ngày thứ 67 - 68 gì đó.

Buổi tối mà tôi sang sông, ngày thứ 67 hay 68 - 69, tôi không nhớ. Khi hành quân sang sông, không có lịch, không có ngày tháng. Tôi chỉ nhớ khi vượt sông sang rồi thì được một anh cho một cái kẹo. Vâng, một cái kẹo, không nhớ kẹo gì, do Việt Nam sản xuất. Nó đã chảy cả ra. Anh ấy bảo là quà tết 2.9 Mặt trận gửi sang, mỗi người được đâu 1 - 2 chiếc gì đấy. Vậy hôm đó khoảng trước hay sau 2.9, còn trận Thành cổ kết thúc đêm 15 ngày 16.9.


Người ở lâu nhất tại đó mà tôi biết là anh Trần Ngọc Long, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 48. Anh Long đã ở đó trước khi 81 ngày đêm xảy ra. Khoảng từ 20.22.6 Trung đoàn 48 (tức đoàn Quang Sơn với lời thề Quang Sơn còn, Thành cổ còn) qua sông, anh ấy đã vào để nhận bàn giao vị trí từ K8 bộ đội địa phương Quảng Trị. Và anh ấy ở đó đến lúc cuối cùng khi quân ta rút đi. Chính anh Long đã xem và góp ý sửa một số chi tiết trong bài Mưa đỏ và 81 ngày đêm của tôi.


- Nếu nói lại về trận chiến đó, câu chuyện hay con người nào mà ông còn nhớ nhiều nhất, ấn tượng nhất?

Ông Trịnh Hòa Bình: Có thể là trận đầu tiên mà tôi đánh.

Hồi đó tình hình thế này: Ở đó ranh giới giữa ta và địch không rõ ràng. Sáng hôm nay có thể địch chiếm được vị trí của ta, đến đêm ta phản kích chiếm lại. Quy mô thường là cấp trung đội trở xuống, cùng lắm là đại đội. Cứ như thế, quân ta đánh vào ban đêm, còn địch thì sáng ngày ra, tầm 5h30 - 6h00 sáng là đánh. Trận đầu tiên của tôi là một trận phản kích như vậy.

Vào trận, tôi là lính mới tò te, được dặn cầm khẩu B.41, cứ lên đến lúc nào có mật lệnh thì bắn. Mũi của tôi gồm có một anh là tiểu đội trưởng, một anh nữa người Nghệ An, và tôi. Nhiệm vụ của tiểu đội (gọi là tiểu đội nhưng chỉ có 3 người) là đánh vu hồi. Lúc ở hướng chính nổ súng, tôi nghe tiếng AK, tiếng đạn địch, chớp lửa đạn sáng đêm, rồi cối của địch bắn vào đội hình ta. Cối bắn vào cả vị trí của tiểu đội tôi. Được một lát thì súng im. Không thấy anh tiểu đội trưởng bảo bắn, cũng không thấy ai bảo gì, tôi lính mới nên cứ nằm im. Một lúc lâu lắm sau, anh Nghệ An bò tới bảo: "Anh ơi rút đi". Tôi hỏi: "Sao lại rút"? Anh kia nói: "Em chả còn nghe thấy nổ súng nữa, mà anh tiểu đội trưởng chết rồi. Em cũng bị thương".

Tôi thấy vai trái anh ấy mất một mảng thịt bằng bàn tay, máu chảy đầm đìa. Tôi băng bó lại, rồi bò sang xem tiểu đội trưởng mình như thế nào, thì thấy ông ấy vẫn đang ôm khẩu AK, gục đầu xuống. Lật lên thì thấy có cái lỗ sâu hoắm ở trán, không biết là đạn hay mảnh đạn.

Không có liên lạc nào từ trung đội bảo chúng tôi rút cả. Tôi cõng tiểu đội trưởng đã hy sinh trên lưng. Anh bị thương kia phải cầm cả khẩu B.41 của tôi, một khẩu trung liên và AK. Hai thằng bò về. Đó là trận đánh đầu tiên, trận mà tôi chẳng bắn một phát súng nào cả.

Nói về tính chân thực của phim ảnh, ngoài tính chân thực lịch sử như ông đã nói rất nhiều, thì cũng phải nói đến một khía cạnh khác là chân thực nghệ thuật. Rất lâu rồi Việt Nam chúng ta mới có một bộ phim chiến tranh "cháy vé", được nhiều người xem như "Mưa đỏ". Bộ phim như vậy có thể cho thế hệ trẻ - những người sống cách xa thời chiến - biết đến sự tàn khốc của chiến tranh. "Mưa đỏ" có tác dụng tích cực xét ở góc độ một tác phẩm nghệ thuật?

Ông Trịnh Hòa Bình: Như tôi đã nói ở trong bình luận của tôi, dù rằng "Mưa Đỏ" có những cái chưa được chuẩn xác về lịch sử, nhưng ít nhiều thì đấy là bộ phim nên đi xem. Kể cả với những người như chúng tôi, đi xem rồi có bực mình thì nó cũng gợi lại cho mình được một ít về cuộc chiến đấu ngày xưa. Nó có tác động tâm lý tích cực nhất định đến người khác.

Nhiều người bây giờ vẫn chưa biết là năm 1972 ở Quảng Trị, chúng ta đã có một trận kinh khủng như vậy. Vẫn có những bạn trẻ bây giờ hỏi tôi là, trận bảo vệ thành cổ Quảng Trị năm 1972, chúng ta thắng như thế, tại sao hy sinh nhiều thế? Tôi bảo: Không, tại điểm thành cổ Quảng Trị là chúng ta thua. Còn nhìn toàn cục ở mặt trận Quảng Trị và rộng hơn nữa là toàn cuộc chiến, là chúng ta thắng. Nhưng riêng ở thị xã Quảng Trị có thành cổ đấy, đến ngày thứ 81 là chúng ta thua và phải rút.

Bộ phim cho thấy một trận chiến kinh khủng, nhưng điều như tôi vừa nói trên thì đáng tiếc là phim chưa cho thấy. Nhiều người đi xem phim vì quảng bá, vì tò mò, đi để nghe tiếng bom tiếng pháo nổ ầm ầm. Kể cả như vậy, ít ra phim vẫn có ích về mặt xã hội. Người xem ít nhiều cũng hiểu và mường tượng được cuộc chiến kinh khủng như thế.

Tất nhiên tôi vẫn ước giá như đạo diễn làm tốt hơn. Cả những chỗ không liên quan đến lịch sử, như về tình cảm của anh Cường với cô Hồng, hoặc anh sĩ quan bên kia tên Quang với cô Hồng, giá có thêm những đoạn để người xem hiểu hơn diễn biến tâm lý, tình cảm để đỡ phải suy đoán, thì hợp lý hơn.

Sau trận Quảng Trị, ông còn chiến đấu ở những đâu nữa?

Ông Trịnh Hòa Bình: Năm 1972 tôi chiến đấu ở Quảng Trị. Khoảng tháng 6.1973 Trung đoàn tôi được rút ra phía sau mặt trận để củng cố, bổ sung quân và vũ khí, rồi chuyển sang huấn luyện. Đầu năm 1975 Trung đoàn bí mật vào Tây Nguyên, đánh Buôn Ma Thuột và có tham gia Đường 7. Sau đó xuống Cheo Reo, Dầu Giây, Long Khánh, có đánh cả ở Xuân Lộc, rồi đi vòng sang phía đông. Đến 1976 chúng tôi về lại Quảng Trị và 1977 tôi ra quân


Con đường nào đã đưa ông - một người lính trở thành bác sĩ?

Ông Trịnh Hòa Bình: Tôi ra quân thì đi học nốt lớp 10, rồi thi đại học. Chẳng may đã đỗ! Tôi thi trường Y Hà Nội. Thực ra mà nói thì tôi thích vẽ, tôi muốn thi vào kiến trúc hoặc mỹ thuật. Cụ ngoại tôi ngày xưa là đốc học của trường Mỹ thuật Đông Dương. Tôi đã nói với bố mẹ là sẽ thi một là kiến trúc, hai là mỹ thuật. Mẹ tôi đã dẫn tôi đến nhà ông Phan Kế An để thử. Nhưng sau thì bố tôi, Giáo sư Bác sĩ Trịnh Bỉnh Dy, bảo: "Con phải thi trường Y".

Gia đình tôi có truyền thống nghề y. Bố mẹ tôi đều dạy ở trường Y cả. Tôi học y là theo ý của gia đình, nên thực ra cũng không hẳn toàn tâm toàn ý suốt 6 năm học y. Phải đến những năm cuối đại học, tôi mới thích, chứ những năm đầu thì sốc.

Có một lần, là lần đầu tiên tôi đến phòng mổ bệnh viện Việt Đức. Khi đó là sinh viên thực tập, mới đứng ở phòng ngoài thôi. Hôm đó gần tết, người ta đốt pháo đầy ngoài phố. Khi tôi bước vào cửa phòng mổ, khói pháo ở bên ngoài bệnh viện bay vào, mùi ê te, thuốc sát trùng và đặc biệt là mùi máu - máu tươi chứ không phải máu khô - đồng loạt ập vào mũi. Sốc. Tự nhiên tôi bị choáng. Cảm giác choáng ấy, cả cuộc đời tôi chưa bao giờ bị. Cảm giác như mình đang ở giữa trận chiến kia. Tôi phải đi ra ngoài một lúc, tỉnh táo rồi mới vào. Bọn “trẻ con” cùng lớp ngạc nhiên lắm, bảo: "Ông anh lính về mà sao kém thế"? Các bạn ấy chưa bao giờ trải qua cảm giác như tôi, không thể tưởng tượng được.

Cũng khá tiếc vì đời thực không có một câu chuyện như sách về người lính buông súng và chọn cầm dao mổ cứu người. Nhưng vẫn xin chúc mừng ông vì cuộc sống thời bình cũng khá xứng đáng với những gì ông đã trải qua trong cuộc chiến để có được?

Ông Trịnh Hòa Bình: Chuyên môn của tôi là chẩn đoán hình ảnh, và như đã nói “nghề chọn người”, cũng có yếu tố gia đình. Thời bình dù thế nào cũng vẫn rất đẹp. Còn các bạn trẻ, nên biết về chiến tranh nhưng đừng nên mong ước sống trong thời chiến.

Tôi và các đồng đội vẫn thường gặp nhau. Bạn cũng tưởng tượng được đấy, thể nào câu chuyện cũng quay về cuộc chiến năm xưa. Chuyện chiến tranh, mong là nên để gói ghém lại với thế hệ chúng tôi.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét