Trang

Thứ Bảy, 17 tháng 5, 2025

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn trả lời phỏng vấn về lãnh tụ HCM

 HG: Từ góc nhìn thâm trầm qua bao thời gian của một sử gia già, một chứng nhân lich sử, nhân vật chính được tôn trọng; nhưng người nghe cũng được mở mang tầm nhìn cả chiều rộng và chiều sâu về một vài điểm mờ trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc vốn luôn được che chắn tứ bề bởi những màn sương huyền ảo. Các bạn a_n n_inh mạng, có vào xem, thì đừng cố ngăn cản sự ham hiểu biết của HG nhé! Lãnh tụ HCM là một nhân vật kiệt suất, nhưng sự thần thánh hoá đến mức ảo thuật không còn cần thiết và cũng là điều không thể trong thế giới thông tin ngày nay.  Một lần nữa HG không để chế độ thông báo bài đăng nên các bạn không phải lo lắng gì cả! Cũng chỉ những người trình độ tối thiểu tầm HG trở lên mới đủ kiên nhẫn tìm kiếm và đọc hết những câu chuyện dạng này, mà những người đó thì lại khỏi cần đến sự "tuyên truyền" của một người vô danh thuộc nhóm cấp thấp như HG. Các bạn  a_n n_inh mạng có thể đồng ý hay không đồng ý với một bài đăng cụ thể trong blog, vì "bá người bá tánh", nhưng có một điều chắc các bạn cũng thấy: HG là một người tử tế, và blog HG vẫn luôn luôn biết lựa chọn những bài đăng khá "được" mà, phải vậy không?

ÔNG HOÀNG XUÂN HÃN NÓI VỀ ÔNG HỒ CHÍ MINH

Hoàng Xuân Hãn (1908 – 1996) là một nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam đồng thời là một kỹ sư, nhà toán học. Ông là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên. Ông là học giả uyên bác được cả 2 miền kính trọng.
Năm 1945, ông được ông Trần Trọng Kim mời làm bộ trưởng bộ Giáo dục-Mỹ thuật. Năm 46, ông được CP VNDCCH mời tham dự hội nghị Đà Lạt để đàm phán với Pháp.
Năm 1951, ông Hãn sang Pháp, do lo ngại bị CP Nguyễn Văn Xuân của QGVN bắt và không về VN nữa. Sau 1954, ông có tham gia viết bài cho tạp chí Sử Địa của VNCH, không thấy cộng tác gì với VNDCCH.
Hoàng Xuân Hãn có tư tưởng trung dung, có phần thiên tả. Ông có những nhận xét khá khách quan về các chính khách mà ông từng quen biết như ông Hồ, ông Diệm, ông Nhu, vua Bảo Đại, ông Trần Trọng Kim...Có thể nói HXH là chứng nhân lịch sử giai đoạn 45-54 mà có tiếng nói đáng tin cậy nhất.
Bà Thụy Khuê từng là biên tập viên đài RFI của Pháp, đã có cuộc phỏng vấn với HXH về các nhân vật lịch sử nói trên. Dưới đây là trích đoạn nói về ông HCM.
TK: Thưa bác, bây giờ nhìn lại, với con mắt sử gia, thì bác đánh giá ông Hồ Chí Minh như thế nào? Về công cuộc giải phóng đất nước và đưa đất nước đến tình trạng sau này như vậy?
HXH: Xét về Hồ Chí Minh thì phải có lâu năm sau này thì xét mới không thiên lệch. (Chú thích: Phần gạch dưới sau đây đã bị cắt bỏ trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, sđd) Hiện bây giờ thì người ta oán nhiều lắm. Oán ấy là oán Đảng Cộng Sản, những người có óc marxiste hồi ấy. Chuyện đầu hết là tranh giành, chém giết những người bên những đảng quốc gia. Đấy là một cái họ trách. Cái thứ hai là lúc Cải Cách Ruộng Đất, gọi là trong nước có người giầu, người nghèo, chênh lệch. Cái thứ ba: phương pháp của marxiste, lúc ấy họ chỉ có một chiều, nghĩa là sự thật chỉ có một mà thôi. Không có sự thật thứ hai. Không được nói trái nhau. Nghĩa là họ không lý luận như người thường, cho nên sự oán với sự ghét nhiều lắm.
Nhưng mà nói cái kết quả tức thì nước mình bây giờ mà có độc lập, có thống nhất, thì cái ấy là cái công của Hồ Chí Minh to lắm. Dẫu là người ta dùng một chính sách gì, cộng sản hay quốc gia, thì cái công ấy sau này đối với người viết sử, người ta xét lại không khác gì đời Lê Lợi, mà rồi quân Minh phải về. Lúc ấy đời Lê Lợi cũng nhiều đám chứ không phải chỉ mình đám Lam Sơn mà thôi. Đám Lam Sơn, đám Đông Triều, những đám lớn đấy. Đám Đông Triều, đám Lam Sơn, đám Tuyên Quang... bốn năm đám[43] không có cộng tác direct[44] thế này mà giành nhau, nhưng mà cũng là ganh tỵ nhau để giải phóng đất nước. Rồi đám thuộc Trần, muốn cứu vớt con cháu nhà Trần mà cũng đánh như Trần Giản Định[45], Trần Trùng Quang[46] gì đấy. Những đám ấy có thể nói với đám Lam Sơn cũng là trái nhau hết cả. Nhưng sau này người ta quên. Người ta nhớ đám Lam Sơn vì chính nhờ đám Lam Sơn mà đất nước được giải phóng. Cho nên tôi nghĩ không nên xét vội từ bây giờ. Về lâu, về dài sau mới nghĩ đến sự có công của một người nào.
Riêng về ông Hồ Chí Minh thì tôi chỉ gặp có một lần, gặp thực là nói chuyện tay đôi lâu với nhau. Tôi có kể chuyện trong Hội Nghị Đà Lạt đấy. (Chú thích: Câu gạch dưới sau đây đã bị cắt bỏ trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, sđd) Hồi sau thì tôi không có thì giờ nữa. Mà xét chung, những sự nghị luận của ông, lời nói của ông với sự làm nữa, thì đừng có thiên về... nhiều người cho là cái sự ông nói một cách hiền lành là ông ấy giả dối. Chuyện ấy nó không phải như thế hẳn đâu. Tự nhiên một người chính trị họ có cái cách nói của một người chính trị. Người ta giấu giếm cái ý của người ta một phần nào, nhưng mình phải hiểu.
Một chuyện tôi nghĩ sâu sắc là Hồ Chí Minh là một người Nghệ, là con cháu những người về đường Cần Vương, hồi Cần Vương với ông Phan Đình Phùng, Cao Thắng... các ông nghĩa khí rất cao, dân tình ai cũng theo cả. Đến lúc thua chỉ một cái đồn, hai người Pháp với độ một trăm người lính Tập, nhưng nó có súng, nó bắn các ông ấy tan hết cả.
Ông Hồ Chí Minh, cũng như tất cả những người ái quốc trong vùng Nghệ Tĩnh lúc ấy biết rằng không có súng không làm được gì cả. (Chú thích: Những phần gạch dưới sau đây đã bị cắt bỏ trong cuốn La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, sđd) Cho nên cái đời chính trị của ông Hồ Chí Minh, từ lúc sang Pháp, rồi đi với cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, rồi ra hội nghị Versailles gì đấy...
Ông Hồ Chí Minh hồi ấy đương có cái ảo tưởng là với cái chính trị mới, với cái tinh thần mới của quốc tế, có thể thoát ra một cách khác. Ông ấy không có cái chí như Gandhi bảo rằng là cứ hòa bình, kiên nhẫn, rồi cũng có lúc được độc lập. Nhưng thực ra, với Gandhi, với những ông ấy... cũng may vì có chiến tranh thế giới cho nên các ông ấy mới được độc lập, không phải là tự các ông ấy mà gỡ ra được. Nói thực như thế.
Về ông Hồ Chí Minh, lúc ở bên này ông ấy thấy rằng tất cả các nước trên thế giới không có thể dựa và nước nào được hết cả mà có khí giới. Cái óc của ông ấy là óc khí giới. Từ năm 23, ông đã nghĩ đến. Lúc ấy chỉ có Đảng Cộng Sản, vì chính sách của họ, có thể giúp được khí giới. Cho nên ông ấy đi với tụi Nga hồi ấy.
Đến lúc đi với Borodine về Quảng Đông là ông ấy về với một ý đồ. Nếu có khí giới mà trình độ tổ chức người trong nước thấp, cũng không có thể làm gì được. Cốt cái tổ chức ở bên trong chứ không phải tổ chức ở bên ngoài. Cho nên ông ấy kêu gọi những người trẻ tuổi lúc ấy. Nhất là chuyện đám ma cụ Phan Chu Trinh vừa xẩy ra, thanh niên lúc ấy, những người tốt phần nhiều bị đuổi ra khỏi trường, không được đi học nữa. Người ta sang Quảng Đông học trường của ông Hồ Chí Minh. Dần dần ông ấy lập ra mấy đảng, trước là để quen với cách tổ chức.
Rồi thì ông ấy lập ra Đảng Cộng Sản, cốt làm thế nào để bên Moscou[47], bên Staline nó tin, nó mới cho tiền, nó mới cho súng ống. Cho nên ông ấy lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cái óc nationaliste[48] của ông ấy là mình thấy ở trong đấy rồi. Nhiều khi vô tình mà ông ấy lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam. Lập vào khoảng tháng 3 năm 1930 thì đến tháng 7, tháng 8 năm 1930, cái hạng thanh niên mà ông ấy gọi từ trong nước ra, rồi thì chuyển sang bên Moscou, học về marxiste[49]. Ở bên này, những hạng[50] ấy được Staline cho về Quảng Châu, lập một đảng khác là Đảng Cộng Sản Đông Dương, chứ nó không cho từ Việt Nam nữa.
Bởi vì Việt Nam tức là nationaliste, thì nó xóa và nó đẩy ông Hồ Chí Minh ra ngoài. Ông Hồ Chí Minh từ trước đến giờ có vào cái Đảng Cộng Sản Đông Dương đâu? Không có. Cái chuyện đó cũng không can hệ lắm, nhưng nó chứng tỏ, trong tinh thần thì đấy là một người nationaliste, nhưng mà họ dùng cái marxiste, rồi ở lâu với marxiste[51] thì họ thấy có nhiều sự tốt ở trong đảng, nhất là đường tổ chức, đối với Việt Nam là rất mới.
Đối với cái tuổi chúng tôi, thì tôi kinh nghiệm rằng: Lúc đầu tiên Việt Minh mới lên, ở Hà Nội khi nào họp một cái gì thì tôi thấy họ có tổ chức, có phương pháp có nhẽ là đơn sơ -người thanh niên Việt Nam thường chỉ nói miệng nhiều, chứ không có phương pháp, làm lung tung-, nhưng ngăn nắp lắm. Xong buổi họp biên chép rõ ràng những ý kiến đưa ra. Tôi thấy khác cách Việt Nam làm việc nhiều lắm. Tôi hiểu cái sự vì phương pháp mà họ theo.
Sau, đến lúc đánh thì tự nhiên mà trụ được. Quân đội của Pháp, có máy bay, có xe tăng... mà mình tay không mà trụ được lâu thế, nhờ cái stratégie[52] của mình, stratégie của Á Châu lâu đời, dùng du kích mà đánh; cái nào mình mạnh, chắc được, mới đánh. Những lối như thế là stratégie của mình cả.
Được cái người Pháp khinh địch, khinh mình, cho nên không dè họ thua. Nhưng đến lúc Điện Biên Phủ, thì nói thực, lúc ấy không có súng ống tối tân không đời nào mà đánh được Pháp. Pháp lúc ấy được Mỹ giúp ghê lắm rồi, về súng ống ghê rồi. Chỉ có bom nguyên tử họ không giúp, hay là 100 máy bay họ không giúp một lần, họ chỉ giúp lẻ tẻ thôi.
Hồ Chí Minh, lúc ấy tụi Tàu đặt vấn đề ra, nếu không theo nó, không nghe nó về mặt chính trị, nó không cho súng ống thì cũng chết. Cho nên nó đưa những tụi cải cách ruộng đất ở bên Tầu vừa xong, nó đưa sang, nó cầm một vài ông -gọi là Bộ Trưởng lúc ấy- những người lúc ấy không phụ thuộc Hồ Chí Minh. Sự cải cách gọi là địa phương nhưng mà lên đến huyện, lên đến tỉnh đã có người Tàu điều khiển cả rồi. Thành ông kia là phải nuốt chuyện ấy để mà nó giúp cho súng ống[53]. Họ cũng biết là được Điện Biên Phủ thì mới có chuyện gì, chứ thua Điện Biên Phủ thì lúc ấy thua hoàn toàn.

-------------------------
Phụ lục:
1) Audio phỏng vấn của bà Thuỵ Khuê với GS HOÀNG XUÂN HÃN. Bạn đọc có thể nghe để tự kiểm chứng thông tin.

2) 2 đoạn trích cuộc phỏng vấn của bà Thuỵ Khuê với ông Hoàng Xuân Hãn về chính phủ Trần Trọng Kim, Hội nghị Geneva, Ngô Đình Diệm và cuộc chiến 2 miền:






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét