Tiểu luận
Hồ Anh Thái
![]() |
Thanh bình bên gốc bồ đề, thành Sarvasti (xưa là Savatthi – Xá Vệ) |
30/5/2024- VănhocSaigon
--------------------------------------------------
Ghi chú: Hồ Anh Thái là nhà văn đương đại của Việt Nam. Ông có nhiều năm nghiên cứu và làm việc tại Ấn Độ. Ông có nhiều tác phẩm lấy đề tài Phật Giáo. Xem thêm về ông tại đây:
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Anh_Th%C3%A1i
Blog HG đăng thêm dưới đây một số bài viết của nhà văn Hồ Anh Thái đăng gần đây trên trang Vanhocsaigon về cùng đề tài Phật Đạo.
Bài 1. TRÊN CON ĐƯỜNG HỌC ĐẠO
Thái tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) rời bỏ hoàng cung năm Ngài
hai mươi chín tuổi. Sáu năm sau, Ngài được khai minh, trở thành Đấng Giác Ngộ.
Đệ tử đông dần cho đến khi hình thành một giáo đoàn, và Ngài nổi danh khắp xứ
Ấn Độ. Người ta gọi Ngài là hiền triết xứ Kashi, là đại sư của bộ tộc Thích Ca.
Tin bay về thành Kapilavastu rằng thái tử Siddhattha nay đã
thành Phật và có rất nhiều đệ tử. Vua cha của Ngài bán tín bán nghi bèn cho
quân đi điều tra. Quân do thám về tâu lại rằng quả đúng như tin đồn. Thái tử
nay đã được thiên hạ gọi là Buddha Đấng Giác Ngộ và sống đời Sadhu, tức là giáo
sĩ du hành.
Các nhà sư đi khất thực trên đường phố Luang Prabang, Lào. Ảnh: HAT. |
Năm 528 trước Công nguyên thái tử thành đạo thì cũng phải
hai năm sau, năm 526 Ngài mới trở lại kinh thành quê hương. Vua cha của Ngài tự
thân đến yết kiến vị giáo chủ tại giáo đoàn. Nhà vua bàng hoàng khi biết vị
giáo chủ cùng đệ tử hàng ngày đi khất thực vào buổi sáng. Họ đi thành từng
nhóm, qua cửa từng nhà, nhận thực phẩm cúng dường rồi trở về ăn một bữa vào
trước buổi trưa. Trời ơi, con trai của nhà vua, một thái tử dòng dõi, đã trở
thành kẻ ăn mày.
Vẫn chưa tin vào mắt mình, nhà vua hỏi và Phật khẳng định
rằng đó là tập quán của người tu hành.
– Tập quán nào? – Nhà vua cố kìm nén cơn giận – Ngươi sinh
ra trong dòng họ các nhà vua chưa một lần trong đời biết xin xỏ cái gì hết. Tập
quán của chúng ta là ăn thức ăn trong bát đĩa bằng vàng bằng bạc, chứ không
phải trong cái bát gỗ.
Đức Phật ôn hòa đáp lời:
– Thưa phụ vương, Người xuất thân dòng dõi hoàng gia, đó là
sự thật. Nhưng con thuộc dòng dõi các nhà sư, những Người Giác Ngộ. Chẳng phải
những người này không biết làm lấy mà ăn, nhưng khi đi xin bố thí, họ muốn khơi
gợi ở người đời lòng trắc ẩn, lòng muốn làm điều thiện, và gieo phúc lại cho
người thành tâm cúng dường. Con nói “tập quán” là tập quán của những Người Giác
Ngộ này.
***
Ngày nay, nếu ta muốn hình dung cách thức một giáo đoàn đi
khất thực như thế nào thì có lẽ dễ hiểu hơn cả là đi một chuyến sang Sri Lanka
hoặc Lào, những nước mà tập quán Phật giáo còn ít bị pha tạp.
Mỗi buổi sớm, khoảng từ năm giờ sáng, ta có thể thấy trên
đường phố những sắc áo vàng đi khất thực. Họ đi thành từng nhóm khoảng dăm bảy
người. Các thí chủ rất thành tâm đã mang ghế ra ngồi sẵn trước cửa nhà, có
người thì trải chiếu rồi quỳ lên đó mà chờ. Thí chủ ôm trong lòng một cái thẩu
đan bằng mây tre, trong ấy là xôi như ở Lào hoặc bánh mì roti như ở Sri Lanka.
Các nhà sư lần lượt đi đến và dừng lại trước mặt thí chủ, chìa chiếc bình bát
cũng bằng mây tre ra để cho thí chủ bỏ thức ăn vào đó. Người cúng dường không
nói, người nhận cũng không nói. Sau vài khoảnh khắc, khất sĩ này đi qua thì
khất sĩ đằng sau bước tới. Lại chìa bình bát ra để nhận. Hoàn toàn yên lặng
trên những đường phố thanh bình. Không ai thấy lạ, không ai gây huyên náo rồng
rắn chạy theo các nhà sư.
Như ở thành phố Luang Prabang xứ Lào, hơn 50.000 dân hoan
hỉ nuôi hơn 1.000 nhà sư, tức là cứ 100 dân thì có 2 tu sĩ. Trên một đường phố,
chỉ cần bước đi dăm chục mét là gặp một ngôi chùa cổ kính, mái chùa lượn xuống
là là mặt đất như nghiêng mình xuống chào. Xứ Phật giáo là quốc đạo cho nên đã
hình thành một nghi thức, một nếp sống, một bộ luật ứng xử rõ ràng.
Sáng sớm bước ra đường phố Luang Prabang, ta lại ngỡ đang ở
chính giữa sinh thời Đức Phật. Không khí cổ kính ấy còn ở ngay trong lời văn
của bản quy định của chính quyền thành phố về việc cúng dường. Chính quyền coi
việc các nhà sư đi khất thực là một nét đẹp của thành phố. Vật cúng dường phải
được mua từ chợ mang về, hoặc được chế biến tại nhà, như vậy mới thành tâm. Đồ
cúng dường nhất thiết không được vội vàng đường đột mua ở hàng quán ngay tại
chỗ các nhà sư đi ngang. Du khách có thể chụp ảnh, nhưng không được để đèn
flash hoặc chạy cắt ngang lối đi của nhà sư. Người ta không thể ngồi trên ô tô
buýt đuổi theo đoàn nhà sư mà chụp ảnh, chính vì thế chính quyền không cho phép
ô tô buýt hoạt động trong thành phố. Cũng như vậy, để tỏ lòng thành kính, không
ai được nhìn xuống các nhà sư từ trên cao như ban công tầng gác hoặc trèo lên
cây để nhìn xuống…
Hầu như du khách nào đọc quy định này cũng đồng tình với
chính quyền Luang Prabang. Nhờ vậy mà cố đô có thể bảo tồn nguyên vẹn một tập
tục tưởng đã thất truyền gần ba thiên niên kỷ.
***
Thời Phật, các nhà sư đều là khất sĩ, chưa phải là giáo sĩ
an cư trong “văn phòng hành chính” như những thời đại về sau. Các giáo đoàn đầu
trần chân đất đi khất thực trên khắp vương quốc của mình, có khi du hành sang
vương quốc bên cạnh. Không chỉ ở thành thị mà cả ở hang cùng ngõ hẻm làng quê.
Bằng cách ấy các sư mang ánh đạo vàng của Phật đến với mọi tầng lớp dân chúng.
Dừng đâu là quê, nghỉ đâu là nhà, màn trời chiếu đất nhưng khắp cõi người đi
đâu cũng không ra khỏi cửa Phật. Món khất thực có được, các sư dừng chân ăn một
cách thành tâm. Dừng chân để ăn chứ không được đến nhà các thí chủ ăn uống linh
đình ba hoa tán tụng.
Có những khất sĩ tu khổ hạnh hơn, đi mải miết không nghỉ,
ban ngày phơi mình giữa trời nắng chang chang hơn bốn mươi độ, ban đêm mùa đông
mới chịu vào nghỉ trong hang đá để qua cơn giá lạnh.
Còn tăng đoàn thì vẫn tuân theo hành trình đi khắp xứ sở,
nhưng buổi trưa nắng cháy vẫn dừng lại tìm bóng mát dưới những cổ thụ để ngồi
thiền. Cũng không phải đi suốt năm suốt tháng. Mấy tháng mùa mưa trở ngại cho
hành trình, các sư ngồi an cư trong những tinh xá (hoặc tịnh xá) là thiền viện
ashram mà các vị đại vương hoặc các bậc phú thương xây dựng cho Phật. An cư
chính là thời gian để các sư dành nhiều thời gian tu tập, tinh xá trở thành
trung tâm nghiên cứu. Các cuộc thuyết giảng và luận bàn sôi nổi suốt mùa mưa.
Phật tử và cư sĩ cũng tận dụng thời gian này để đến các tinh xá tham dự các
cuộc hội thảo và luận bàn. Mãi sau thời Phật, một ít vị tu hành rao giảng ý
nghĩa của mùa kiết hạ là dịp để Phật tử đến “phát tâm cúng dường”. Chữ “cúng
dường” là sau này mới đèo thêm vào, chứ thời Phật thì mùa kiết hạ chỉ là để tu
tập và khai sáng.
8/6/2024
Bài 2. CHƯA ĐỦ DUYÊN
Thời Phật tại thế, chỉ duy nhất giáo đoàn ở tiểu vương quốc
Vamsa rơi vào khủng hoảng, dân chúng mất lòng tin vào giáo đoàn. Gay gắt đến
mức dân chúng không cúng dường thực phẩm nữa và giáo đoàn bị đói, thậm chí
nhiều hôm các sư đi khất thực phải về không.
Trong suốt bốn mươi lăm năm đi giáo hóa, Phật thành công
với tất cả các vương quốc lớn và vương quốc nhỏ ở miền Bắc Ấn Độ.
Chỉ trừ một nơi là tiểu vương quốc Vamsa.
Tiểu vương cai trị ở đó là vua Udena. Ông là người thế tục, ông chẳng bao giờ băn khoăn về điều gì có thể xảy ra sau cuộc đời trần thế này, thậm chí ác cảm với vấn đề tôn giáo. Ông thậm chí còn ngăn cản Hoàng gia và các vị quan trong triều đến tinh xá để nghe Phật thuyết giảng.
Khi biết Phật sẽ ghé thăm tinh xá mới thành lập ở kinh
thành Kosambi của Vamsa, đại vương Pasenadi ngỏ lời sẽ nhắn vua Udena là vị vua
chư hầu đến yết kiến Phật. Đó là một cách đại vương điều tiểu vương đến ra mắt
Phật, nhưng Phật từ chối lời giới thiệu từ trên cao này.
Phật trực tiếp gửi lời mời vua Udena đến thăm tinh xá. Tập
quán thời đó là giáo sĩ không tự đến thăm vua mà vua phải đến yết kiến giáo sĩ.
Để vua bước vào thiền viện của bất cứ một tôn giáo nào, đám tiền hô hậu ủng
phải ở lại hết ở ngoài cổng, vũ khí tùy thân cũng không được vua mang theo vào.
Nhưng vua Udena không bao giờ đến yết kiến Phật. Ông ta ngờ
vực các tôn giáo nói chung, càng ngờ vực một tôn giáo mới như đạo Phật.
Nói đi thì cũng phải nói lại, giáo đoàn Phật giáo ở Vamsa
cũng không có gì để cho người ta tin tưởng. Một giáo đoàn nhỏ, mới thành lập,
chưa gây dựng được lòng tin bao nhiêu thì đã sa vào bê bối. Một khất sĩ tên là
Agata đã ghé vào nhà các thí chủ, mỗi nhà uống một chén rượu dừa, đến mức say
khướt, người ta phải ném lên xe bò chở về tinh xá. Sự việc này dẫn đến việc
Phật phải ban hành lệnh cấm rượu trong giáo hội.
Tiếp theo nhiều chuyện xảy ra trong kinh thành khiến dân
chúng khó chịu. Thậm chí nhỏ như chuyện một ông sư vi phạm nội quy nhà vệ sinh
ở tinh xá cũng dẫn đến việc kéo bè kéo cánh, các sư chia làm nhiều phe, thượng
cẳng chân hạ cẳng tay và đấu khẩu triền miên. Đấy là năm 521 trước Tây lịch,
Phật đang ghé thăm tinh xá, Ngài có thuyết phục hai phe xung đột. Nhưng đám nhà
sư đang cơn sân hận không nghe lời mà còn đáp trả hỗn xược.
Phật bực mình bỏ đi.
Hai năm trời sau đó, giáo đoàn ở Vamsa mới thấm đòn. Lâu
nay dân chúng hàng ngày cúng dường thực phẩm cho các khất sĩ xuất phát từ lòng
bao dung với một tôn giáo mới. Thiện cảm chủ yếu là dành cho vị giáo chủ mà
người ta gọi là đại sư của bộ tộc Thích Ca, là hiền triết ở xứ Kashi. Nay không
còn giáo chủ ở đó làm chỗ dựa, giáo đoàn Vamsa như rắn mất đầu. Chỉ còn trơ lại
những khất sĩ đã đánh mất niềm tin, đánh mất uy tín.
Giáo đoàn rơi vào cảnh khốn cùng. Các cư sĩ Phật giáo địa
phương ngừng việc cung cấp thực phẩm hàng ngày. Đấy là cách phản ứng hiệu quả
đối với giáo đoàn bê bối. Nhiều khất sĩ sáng sớm đi khất thực phải bê bình bát
về không. Tình trạng đói dài lay lắt mấy năm ròng.
Tiểu thuyết “Đức Phật, Nữ Chúa và điệp viên” (Hồ Anh Thái,
NXB Trẻ) dựa vào sự kiện lịch sử này, trong đó tác giả tái hiện việc Phật đã
hòa giải hai phe đối địch trong giáo đoàn Vamsa. Nhưng kể cả đã được hòa giải
theo cách để không ai bị mất mặt, mâu thuẫn trong giáo đoàn vẫn âm ỉ nhiều năm
sau.
Duy nhất ở một tiểu vương quốc ấy, việc giáo hóa không xuôi
thuận. Do nhà vua ở đó không thiện chí. Do giáo đoàn ở đó bê bối và chưa đủ
duyên để giác ngộ.
Đủ lý do để suốt ba mươi lăm năm sau đó, Phật không bao giờ
quay lại thăm giáo đoàn ở Vamsa nữa.
Ngày nay người du ngoạn trên đất Ấn Độ có đến thăm thành
phố thiêng Allahabad (cách thủ đô New Delhi 670km và cách thành phố thiêng
Varanasi 120km) thì ngay gần đó là xứ Vamsa thuở xưa.
3/6/2024.
Bài 3. TẤM ÁO MANG LẠI PHÚC ĐỨC
Tấm y ngoài của các sư, tức là chiếc áo choàng, gọi là Phước Điền Y. Ý nghĩa của nó là tấm áo như thửa ruộng gieo trồng phước đức. Hình thức của tấm y này đã trở nên quen thuộc ngay từ thời Phật tại thế.
Người xuất gia đã từ bỏ sở hữu cho nên những vật tùy thân thường là không có giá trị. Chiếc áo của sư không có giá trị bởi vì nó không được may từ một tấm vải nguyên lành xa xỉ. Các sư nhặt giẻ người ta bỏ đi hoặc quần áo người chết ở những bãi hỏa táng bên sông. Chắp vá từng miếng lại mà thành tấm y đắp lên người. Nhưng chắp vá không có nghĩa là lung tung tùy tiện. Các miếng vá đều là hình vuông hoặc hình chữ nhật, tượng trưng cho những thửa ruộng. Tấm áo là những thửa ruộng ghép lại, trên ấy người ta gieo trồng gặt hái phúc đức. Hành trình của các sư là hành trình lan truyền phúc đức và diệt khổ, truyền bá lòng nhân, sống hòa hợp với tự nhiên, không sát sinh, không bạo lực.
Ý nghĩa của việc không tranh chấp không bạo lực cũng chính
ở trên tấm y. Sao không xin những mảnh vải thừa sạch sẽ của hàng thợ may mà lại
phải nhặt ở bãi rác, bãi hỏa táng, nghĩa trang?
Đồ bỏ đi của người chết là thứ không gây tranh chấp, không
khởi lên sân hận ghen ghét đố kỵ. Việc giáo đoàn nghỉ lại trong những bãi hỏa
táng hoặc nghĩa trang cũng mang ý nghĩa đó. Nơi ấy là bình yên, nơi ấy không
chung chạ với người sống để khởi lên tranh chấp.
Ngay từ buổi đầu của Phật giáo, các sư đã có bộ tam y gồm y
dưới, y trên, y ngoài. Cùng với bộ tam y còn năm vật nữa để tạo thành bộ gồm
tám vật tùy thân:
– Một bình bát khất thực luôn ở trên tay. Ghi nhớ rằng bình
bát khất thực là thiêng liêng, là chỗ chỉ để thực phẩm chứ không được để bất cứ
thứ nào khác.
– Một chiếc dao cạo.
– Một cái lọc nước: để bảo đảm nước uống phải sạch, không
có côn trùng sa vào và vì thế người uống mang lỗi sát sinh.
– Một chiếc kim khâu: cho nên các sư đều tự mình khâu vá và
tự may được y áo.
– Một chiếc dây đai: giúp cho toàn bộ y phục gọn gàng.
Chỉ tám vật tùy thân đó thôi, đấy là “tài sản” thiết yếu
của các nhà sư.
Về sau, do tình hình thực tế, Phật đã có một số lần nhượng
bộ các đệ tử về những vật sở hữu. Chẳng hạn y áo may bằng những tấm giẻ lấy từ
bãi hỏa táng có khi gây ra bệnh ngoài da, cho nên Phật đồng ý cho các sư được
mặc y áo do thí chủ cúng dường. Y áo cúng dường thường được may từ một tấm vải
nguyên vẹn, cho nên trên ấy người ta vẽ hình hoặc thêu những đường chỉ, tạo ra
những hình khối như thửa ruộng phước điền. Về cuối đời, Phật cũng ưu tư khi
thấy một số sư không chuyên cần tu tập mà thích đến nhà các thí chủ để được ăn
ngon và thích mặc những tấm y lụa là đắt tiền.
Đền Chaumukha Jain tại làng Ranakpur trên dãy núi Aravalli, gần thành phố Udaipur, bang Rajastha (Ấn Độ). |
Nhân nói chuyện tám vật sở hữu của nhà sư, ta có thể lướt qua tập quán của một tôn giáo nữa ở Ấn Độ, ra đời hầu như cùng lúc với Phật giáo.
Như đã nói trong một bài khác, thế kỷ VI trước Công nguyên
ở Ấn Độ được coi là Thế kỷ Trí Tuệ, Thế kỷ Khai Sáng. Nhiều tôn giáo mới nảy nở
trong trong thời kỳ này, nhưng chỉ Phật giáo còn lại đến bây giờ…
Và một tôn giáo nữa là đạo Jain.
Đạo Phật và đạo Jain có nhiều điểm tương đồng: giáo chủ
sáng lập đều là thái tử của một tiểu vương quốc, họ đều rời bỏ hoàng cung để đi
tìm chân lý rồi giác ngộ. Giáo lý của hai tôn giáo này đều mưu cầu sự giải
thoát cuối cùng, đều chủ trương không sát sinh, không bạo lực.
Chủ trương không sở hữu của đạo Jain quyết liệt đến mức cực
kỳ khổ hạnh: giáo phái Áo Trời (Sky Clad) hoàn toàn khỏa thân để chứng tỏ họ
không sở hữu bất cứ một thứ gì kể cả quần áo. Giáo phái này thường ở trong
những ngôi đền trên núi cao, nơi chỉ có những người cực kỳ mộ đạo mới lui tới
đảnh lễ. Giáo phái Áo Trắng (White Clad) thì giáo sĩ thường xuyên đeo khẩu
trang, để bảo đảm ruồi muỗi không bay vào miệng vào mũi, và như thế là phạm tội
sát sinh.
Một tôn giáo triệt để phi bạo lực và ôn hòa với tự nhiên
như thế, nhưng thuở ban đầu, có một số đệ tử Phật buông lời coi thường, thậm
chí còn gọi đấy là Vô Tàm giáo.
Họ đâu có gì vô tàm vô sỉ, Phật nói. Trên đời này có rất
nhiều người thầy lớn, họ có cách riêng của mình để dẫn dắt chúng sinh. Nỗ lực
của họ rất đáng được trân trọng.
Không chỉ là một lời giáo huấn về đức khiêm nhường. Bản
thân Phật trải nghiệm chân lý đó bằng chính những năm tháng tu hành đầu tiên.
Rời bỏ hoàng cung, cắt đi mái tóc dài của người hoàng tộc, Siddhattha đi vào
rừng. Chàng tìm đến ẩn viện của những đại sư danh tiếng, nhưng thầy nào thì
chàng cũng rời bỏ nhanh chóng. Họ là những trí tuệ lớn nhưng họ không giải đáp
được câu hỏi nung nấu trong đầu chàng: con đường thoát khổ ở đâu?
Dù sau này đã giác ngộ, đã được tôn sùng khắp xứ, nhớ đến
những người thầy khi xưa và cả những người như ông đạo Jain đang hành đạo, Phật
vẫn luôn nhắc nhở đệ tử rằng không có ai là tuyệt đối đúng. Những người thầy
lớn có rất nhiều trên thế gian và họ có cách riêng của mình để dẫn dắt chúng
sinh.
14/6/2024.
----------------------------------------
HG vẫn ổn ha?
Trả lờiXóaCảm ơn ĐV, HG vẫn bình thường ạ! ĐV thời gian qua sức khỏe đã ra sao, có ổn không ạ?
XóaKhông ổn mấy, lên lên xuống xuống :D
XóaVậy cứ biết hiện tại ĐV vẫn đùa thế là tốt rồi ạ! :) ĐV lại còn nhớ qua thăm blog nhỏ này nữa, HG thật cảm kích và xin chân thành gửi lời chúc mừng vì ĐV đã trở lại với các bạn thơ của ĐV. Cuộc sống vô thường. HG cũng lúc này lúc nọ, cứ nghĩ thôi "còn cuộc đời ta cứ vui", cứ làm những việc mình muốn khi còn có thể.
Xóa